GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

XU HƯỚNG LÀM VIỆC TỰ DO CỦA THANH NIÊN NHẬT BẢN TỪ NHỮNG NĂM 1980 ĐẾN NAY

Đăng ngày: 26-07-2012, 19:40

Chiến tranh Thế giới II kết thúc, Nhật Bản là nước bại trận, nhưng chỉ hơn một thập niên sau, từ đống hoang tàn đổ nát, Nhật Bản đã vươn lên trở thành cường quốc thứ hai trên thế giới. Vốn liếng trong tay chẳng có gì ngoài những điều kiện tự nhiên không ưu ái con người, những thiệt hại nặng nề về người và của, một nền kinh tế suy thoái. Vậy mà, những lớp thanh niên Nhật Bản đã làm được một điều kỳ diệu. Họ ra sức phấn đấu học tập và làm việc với tinh thần “kỷ luật thép”, cật lực lao động trong các đoàn thể nghiêm khắc, truyền thống của các tập đoàn sản xuất, cống hiến cả cuộc đời cho công ty.

Xã hội phát triển kéo theo những thay đổi lớn trong quan niệm giá trị cuộc sống và lối sống của mỗi người dân Nhật Bản, đặc biệt là giới trẻ hiện nay. Sự thay đổi ấy là kết quả tất yếu của thời đại nhưng nó cũng mang lại không ít những mặt trái với những hình ảnh của một lớp trẻ rất hiện đại với những hành động, suy nghĩ, lối sống đi ngược lại truyền thống. Xu hướng làm việc tự do – một sự thoát khỏi lối mòn nghề nghiệp của cha anh họ là một ví dụ điển hình.

Bài viết này nhấn mạnh đến xu hướng gia tăng người làm việc tự do – furita tại Nhật Bản, phân tích nguyên nhân và nêu một số giải pháp nhất định của chính phủ Nhật Bản.

1. Lịch sử hình thành, phát triển và thực trạng làm việc tự do ở Nhật Bản hiện nay

Trước đây, được làm việc ở những văn phòng lớn, có thu nhập cao được các bậc phụ huynh Nhật Bản hết sức coi trọng. Còn ngày nay, thay vào đó là khái niệm “làm việc tự do” và “người làm việc tự do” – những thanh niên không hề có ràng buộc với bất kỳ công việc nào, thường xuyên thay đổi công việc và không bao giờ chịu làm những việc không vừa ý, thậm chí kể cả khi đang thất nghiệp. Những người này được gọi là freeter hay furita (được ghép từ chữ “free” – tự do trong tiếng Anh và từ “Arbeiter” – công nhân trong tiếng Đức).

Thuật ngữ furita lần đầu tiên được đặt ra vào cuối những năm 1980 khi nền kinh tế đang bùng nổ, và ban đầu được dùng để gọi những người trẻ, những người từ chối trở thành nhân viên chính, thay vào đó là làm công việc tạm thời hoặc bán thời gian. Mới đầu, nó được xem như là một sự thay đổi trong thái độ của thanh niên về vấn đề làm việc. Tuy nhiên, sau khi suy thoái bắt đầu vào đầu những năm 1990, số người trẻ, những người không thể tìm được việc làm thường xuyên tăng lên, và nhiều người đã bị buộc phải chấp nhận việc làm tạm thời.

Các nhà xã hội học thường dùng từ này để chỉ những người thuộc độ tuổi từ 18 đến những năm đầu 34 tuổi, sống vật vờ nhờ trợ cấp xã hội, hoặc từ những nguồn thu nhập part-time không ổn định, hoàn toàn thờ ơ với sự nghiệp và thế giới thực, để theo đuổi những giấc mộng của riêng họ. Furita không chỉ mô tả loại hình công việc mà còn thể hiện một lối sống. Các thanh niên làm nghề tự do chỉ làm việc vừa đủ nhưng lại vui chơi hết mức có thể, khi cạn tiền lại tính tiếp, dường như bỏ rơi tương lai.

Số lượng furita ngày càng tăng. Năm 1982 có khoảng 500.000 furita tại Nhật Bản và tăng lên đến 4.170.000 furita vào năm 2001. Theo một số ước tính sẽ có mười triệu furita tại Nhật Bản vào năm 2014. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng các furita hút sự quan tâm lớn của xã hội và trở thành một hiện tượng của thời đại. Theo một cuộc khảo sát của Viện Lao động Nhật Bản vào năm 2000, các furita làm việc 4,9 ngày/tuần và kiếm được trị giá 139.000 yên/tháng. Hai phần ba furita chưa bao giờ có một công việc làm đủ thời gian.[1]

 

 

Biểu đồ 1: Số lượng furita trong xã hội Nhật Bản

từ năm 1982 đến năm 2006[2]

Theo điều tra của chính phủ Nhật Bản, số lượng furita gia tăng một cách đáng kể từ năm 1990 đến năm 2001. Những năm gần đây, khi nền kinh tế được phục hồi thì số lượng furita có xu hướng giảm. Các furita thường gặp nhất ở độ tuổi 25 đến 29. Nhà nghiên cứu Kazuhiko Yatabe đã nhận diện chân dung lớp trẻ này trên tuần báo AERA: “Ở độ tuổi 25-35 tất cả họ đều thuộc về thế hệ “bị lấy mất” (lost generation), một thế hệ hi sinh cho sự ổn định công ăn việc làm của cha anh. Họ vốn là những “baby-boomer” và bị lấy mất cả theo nghĩa xã hội đã tước đoạt mất tương lai lẫn bản sắc của họ”.[3]

2. Nguyên nhân của sự gia tăng người làm việc tự do

Trước đây, người Nhật luôn quan niệm là họ phải có một công việc trong các công ty, các cơ quan nhà nước mà họ sẽ gắn bó trong suốt cuộc đời. Ngày nay, khủng hoảng, phá sản và thất nghiệp ngày càng nhiều trong xã hội Nhật,... đã khiến lối sống truyền thống bị đảo lộn, số lượng furita gia tăng.

2.1. Các công ty giảm số lượng nhân viên

Việc các công ty Nhật Bản giảm số lượng nhân viên hoặc chỉ ký hợp đồng lao động do suy thoái kinh tế và để thích nghi dễ dàng hơn với những thay đổi trong môi trường kinh doanh là nguyên nhân lớn làm tăng số lượng furita.

Trước đây, các công ty Nhật Bản trả lương theo thâm niên và có chế độ làm việc suốt đời tạo ra những thế hệ công nhân luôn trung thành, tận tụy với công ty, coi công ty là nhà của mình và nguyện cống hiến cả cuộc đời cho sự phát triển của công ty. Trong thời kỳ suy thoái, các công ty đã cắt chế độ làm việc suốt đời và tái cơ cấu nhưng hệ thống tuyển dụng hiện tại cũng vẫn chẳng hề thay đổi. Điều đó có nghĩa là khi công ty quyết định cắt giảm nhân lực để tiết kiệm chi phí, gánh nặng chủ yếu sẽ đè lên những người mới tốt nghiệp và công nhân tạm thời – chiếm khoảng 1/3 số lao động Nhật Bản. Nếu những năm 90 của thế kỷ 20, tỉ lệ thất nghiệp là dưới 2% thì nay đã vượt trên 5%, tức khoảng 3,4 triệu người không việc làm.

Ngoài ra, trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, rất nhiều công ty bị phá sản dẫn đến một số lượng lớn lao động thất nghiệp. Thêm vào đó là sự phát triển của các ngành công nghệ mới, sử dụng máy móc hiện đại thay cho con người. Nhiều công ty lại đầu tư ra nước ngoài vì nguồn nhân công rẻ hơn.

2.2. Thanh niên muốn được tự do

Giới trẻ không muốn bị ràng buộc bởi những mối quan hệ ông chủ - nhân viên, quan hệ đồng nghiệp, những quy định khắt khe của công ty,…Trong công ty có sự phân tầng rõ rệt, mọi người làm đúng bổn phận, chức vụ của mình, nhân viên cấp dưới nhất mực yêu quý, kính trọng cấp trên. Tôi đã từng đọc một bài báo nói về việc các ông chủ Nhật Bản, buổi sáng đến công ty thường quát mắng nhân viên om sòm gây áp lực mặc dù họ không làm gì sai. Những nhân viên nước ngoài hoặc du học sinh các nước làm việc ở công ty Nhật không chấp nhận được, cảm thấy bị xúc phạm, sỉ nhục. Và các nhân viên Nhật ngày nay cũng không chấp nhận được việc đó. Yoshinarai Nozaki, một furita đã bỏ học ở Tokyo cho biết: “Tôi không thể là người làm công ăn lương. Dậy sớm trong buổi sáng, ném mình vào những toa tàu điện chật ních, làm việc muộn và ngồi ngâm nga với cấp trên để được yêu mến. Tự do còn đâu nữa?”

Theo kết quả thăm dò của một tờ báo lớn ở Nhật Bản tiến hành đầu tháng 2 năm 2001 về quan niệm của thanh niên Nhật Bản đối với việc làm thì có tới 78% số người được hỏi cho rằng có một việc làm bất kỳ, miễn là công việc đó phù hợp với sở thích, không bị gò bó về thời gian, về trình độ học vấn đồng nghĩa với việc họ tìm được tự do trong cuộc sống.

2.3. Do chi phí giáo dục cao và phụ nữ đi làm nhiều hơn

Chi phí giáo dục đại học ở Nhật Bản rất cao nên nhiều học sinh chỉ học hết trung học là bắt đầu đi làm. Vì không có bằng cấp và thiếu kinh nghiệm nên họ không xin được việc làm ổn định ở các công ty mà phải làm rất nhiều nghề khác nhau và trở thành các furita.

Hơn nữa, việc phụ nữ ngày nay đi làm nhiều hơn cũng làm mất đi một khối lượng lớn việc làm của thanh niên. Sự khủng hoảng đã làm đảo lộn những mối quan hệ giữa các giới, đặc biệt là trong quan hệ gia đình. Từ những năm 80 của thế kỷ 20, lương của đàn ông không còn đủ để trang trải cho mức sống ngày càng cao, nhất là chi phí cho con cái ăn học vì sự cạnh tranh học tập ngày càng khốc liệt. Năm 1984, lần đầu tiên trong lịch sử Nhật Bản, số phụ nữ có gia đình và đi làm đã vượt quá số phụ nữ chỉ ở nhà. Ngày nay, các phụ nữ trẻ ở Nhật không muốn sống cuộc sống như mẹ mình trước đây. Cũng như nam giới, họ đi làm, học tập, nghiên cứu.

Ngoài ra, người Nhật có tính kỷ luật rất cao, sự chăm chỉ, chu toàn. Trong công việc cũng vậy, họ đòi hỏi sự chính xác, cẩn thận và yêu cầu cao. Vì vậy, áp lực công việc rất lớn.

Hơn nữa, những người làm việc tự do không phải đóng thuế thu nhập và tiền cấp dưỡng. Những furita đầy sức sống đi khuấy cà phê, đưa hàng, phục vụ,.. và nhận lương bằng tiền mặt, đi xả láng với bạn bè, bất cứ lúc nào mà không cần chờ đến ngày lấy lương. Họ làm được bao nhiêu được hưởng bấy nhiêu và không phải đóng thuế cho Nhà nước.

Nguyên nhân quan trọng nhất là sự thay đổi đến chóng mặt về lối sống của giới trẻ. Những người trẻ ngày nay do ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa phương Tây, đề cao chủ nghĩa thực dụng, tự do cá nhân đã có cái nhìn, quan điểm rất khác biệt về việc làm.

3. Ảnh hưởng đến xã hội Nhật Bản

Có thể nói, sự tồn tại theo kiểu furita là một vấn nạn lớn trong xã hội Nhật Bản hiện đại. Giới trẻ hiện nay luôn muốn được tự do nên vô tư bay nhảy, sống buông thả, không hề biết đến những tác động xấu từ lối sống ấy đến xã hội.

3.1. Vấn đề hôn nhân

Hiện nay, xã hội Nhật Bản đang phải đối diện với tình trạng suy giảm dân số một cách nghiêm trọng, một xã hội với kết cấu dân số già. Nguyên nhân chính là do giới trẻ hiện nay, đặc biệt là các furita hầu như không quan tâm đến vấn đề kết hôn hoặc kết hôn rất muộn, ngày càng có nhiều thanh niên Nhật Bản quyết định sống độc thân suốt đời.

Nếu năm 1950, chỉ có khoảng 2.81% người dân Nhật Bản dưới 50 tuổi chưa kết hôn lần nào. Nhưng những con số của các năm gần đây là: 7.05% vào năm 1980, 9.09% vào năm 1990, 14.35% vào năm 1995. Những kết quả điều tra cụ thể trong lứa tuổi thanh niên cho thấy: trong 100 người từ 21 đến 30 tuổi ở các thành thị, thị trấn có 70% người được hỏi cho biết họ không quan tâm đến hôn nhân.[4]

Vấn đề kinh tế là một nguyên nhân quan trọng của hiện tượng này. Những furita thường có thu nhập thấp, không thể lập gia đình riêng của mình vì chi phí sinh hoạt cho một gia đình là rất lớn. Vì thế nên hầu hết các furita đều không kết hôn và sống cùng cha mẹ, trường hợp xấu nhất có thể trở thành người vô gia cư. Nhà xã hội học Mashihiro Yamada thuộc đại học Gakugei, Tokyo nhận định lớp trẻ furita bê tha này của Nhật Bản là người ngăn cản và làm suy sụp những yếu tố thiết yếu của nền kinh tế đất nước. Và ông cũng gọi họ là “những người độc thân ăn bám”.

Thêm vào đó, ngày nay, một gia đình Nhật Bản thường có rất ít con nên có sự gắn kết lớn giữa cha mẹ và con cái. Với chế độ lương theo thâm niên của bố mẹ, con cái sẽ có cuộc sống khá đầy đủ. Bố mẹ cũng muốn con cái sống chung để có thể hỗ trợ và đỡ cô quanh khi về già. Vậy nên lớp trẻ không phải quá coi trọng vấn đề việc làm và tài chính.

Có suy nghĩ rằng: “khi bạn hẹn hò với một cô gái, bạn phải gặp cô ấy một tuần một lần, phải gọi điện nói chuyện với cô ấy, tất cả những điều đó thực sự vớ vẩn, chẳng có nghĩa lý gì. Tôi ghét những gì gọi là bổn phận. Ngoài ra, bạn còn phải có biết bao mối quan hệ khác. Ở thế hệ chúng tôi, những người sinh ra và lớn lên trong một xã hội hiện đại, muốn gì được nấy, có thể đi chơi bất cứ lúc nào nhưng khi bạn có nhiều mối quan hệ, bạn phải làm nhiều hơn cho những mối quan hệ đó, và đó quả là những lựa chọn không hề thú vị”, nên những thanh niên tự do không hề quan tâm đến hôn nhân.

Hơn nữa, phụ nữ ngày nay không muốn kết hôn. Để kết hợp hài hòa giữa cuộc sống gia đình với cuộc sống nghề nghiệp là một thách thức lớn đối với họ. Công việc bận rộn và sự mệt mỏi khiến họ ít sinh đẻ hoặc có con muộn làm giảm đáng kể tỷ lệ sinh của nước Nhật. Tất cả đã tạo nên một nước Nhật với dân số già trong thế kỷ 21.

3.2. Làm giảm hệ thống y tế, bảo hiểm hưu trí của đất nước

Sự gia tăng người thất nghiệp và furita đã làm cho Chính phủ Nhật cực kỳ lo lắng. Vô số giới trẻ Nhật Bản sẽ không có cơ hội phát triển kỹ năng nghề nghiệp cũng như không còn hứng khởi trong công việc. Điều này sẽ đe dọa sự phát triển xã hội cũng như sẽ tạo khoảng cách thu nhập của những người dân với nhau. Và như vậy, hệ thống lương hưu của Nhật Bản vốn trong tình trạng khó khăn do sự đóng góp sụt giảm của người dân sẽ gặp khó khăn hơn.

Những người làm việc tự do nhận lương bằng tiền mặt, không đóng lương hưu.  Khi về già, họ sẽ không có tiền thu nhập để trang trải cuộc sống nên sẽ phải làm việc vượt quá tuổi nghỉ hưu bình thường. Các furita cũng không đóng bảo hiểm y tế ở một công ty nào nên khi xảy ra tai nạn hay ốm đau thì nó là một vấn đề lớn đối với người thu nhập thấp, không có tiết kiệm hoặc tiết kiệm rất nhỏ như họ.

3.3. Xuất hiện trào lưu tự tử tập thể trên Internet

Nhật Bản là một trong những nước có tỷ lệ tự tử cao nhất thế giới. Trong số những đối tượng có ý định tự tử thì phần lớn là những furita. Họ sống không mục đích, không nghề nghiệp, không có định hướng cho tương lai nên khi gặp bế tắc thì dễ dàng tìm đến cái chết. Gần đây, ở Nhật Bản còn xuất hiện một loại hình tự tử tập thể qua Internet.

Internet trở thành một hình thức giao tiếp phổ biến tại Nhật Bản. Mỗi khi gặp chuyện gì nghiêm trọng về tình cảm hay có những tâm sự, thanh niên Nhật Bản, nhất là các furita – những người không được xã hội coi trọng không dám thổ lộ trực tiếp với người khác do sợ bộc lộ tình cảm thật của mình. Họ ít có quan hệ với người khác nên thường có khuynh hướng giao tiếp trên mạng và cảm thấy như tìm được bạn tâm giao. Rất nhiều furita tuyệt vọng vì rơi vào sự cô độc, thất nghiệp, vô gia cư, cảm thấy bị xã hội coi là “đồ vô tích sự” đã rủ nhau tự tử tập thể qua Internet. Họ thấy mình thua kém người khác nên ngày càng xa cách những người xung quanh. Khi khoảng cách đó quá lớn, khi không vượt qua được lý tưởng và cá nhân thì họ thấy mình là đồ bỏ đi và tìm đến cái chết nhưng họ không đủ can đảm để chết một mình. Những người có cùng ý nguyện tự tử thường gặp gỡ và rủ nhau cùng chết tại những nơi hoang vu ít người phát hiện. Chỉ riêng trong năm 2005, khoảng 91 người đã kết liễu cuộc đời trong 34 vụ tự tử tập thể có liên quan đến Internet.

3.4. Tệ nạn xã hội gia tăng

Nhìn một cách khái quát, chúng ta sẽ cho rằng Nhật Bản là một đất nước an toàn, những em nhỏ có thể tự đi đến trường, phụ nữ có thể đi bộ vào đêm khuya mà ít bị tấn công… Nhưng đằng sau nó vẫn ẩn chứa những kẻ tội phạm gây tội ác hết sức hung hăng và man rợ. Các furita hay NEET và những người mắc hội chứng hikikomori – một bộ phận của furita là thành phần chính làm nên những tội ác ấy. Họ bị gạt ra ngoài dòng chảy của xã hội, bị cho là những người thừa nên thường có xu hướng liều, căm hận cuộc đời và gây nên những vụ án giết người man rợ.

Những loại văn hóa phẩm không lành mạnh, đề cao chủ nghĩa vị kỷ, thực dụng của phương Tây đã tràn vào Nhật Bản. Các loại phim ảnh, băng, đĩa hình, sách báo, tranh ảnh kích thích tình dục và bạo lực cùng với ma túy, thuốc phiện, âm nhạc kích động… đang đầu độc đời sống tinh thần của giới trẻ. Từ đó, tội phạm ngày càng gia tăng. Một kết quả đáng lo ngại rằng tỷ lệ tội phạm và bị bắt giữ trong thanh thiếu niên từ độ tuổi 14 đến 19 cao gấp 9 lần tỷ lệ phạm tội ở người lớn.

3.5. Furita có thu nhập thấp, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước.

Viện nghiên cứu UFJ công bố kết quả nghiên cứu cho thấy, những lao động tự do đã gây sụt giảm 1,7% GDP trong năm 2001. Thu nhập bình quân của người làm nghề tự do chỉ là 1,6 triệu yên (khoảng 25.280 USD) ít hơn một nửa so với những người làm việc toàn thời gian vốn có mức thu nhập là 3,87 triệu yên. Ngoài ra, nhiều người cho rằng với số lượng furita ngày càng tăng làm cho tính cần cù, chăm chỉ - đức tính đặc trưng của người Nhật đã và đang dần bị mất đi.

4. Một số giải pháp của chính phủ Nhật Bản góp phần giảm tỷ lệ người làm việc tự do

4.1. Về vấn đề việc làm và kết hôn

Để giảm bớt nguy cơ tỷ lệ thất nghiệp ngày càng gia tăng trong giới trẻ, chính phủ lập các cơ quan, trung tâm hỗ trợ, giới thiệu việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp và những giải pháp điều chỉnh quan trọng.

Nhằm giúp đỡ những sinh viên tốt nghiệp phổ thông trung học có thể định hướng nghề nghiệp trong tương lai của mình, Chính phủ Nhật Bản dự kiến sẽ chi 72,7 tỉ yên cho ngân sách giáo dục năm 2004. Chính phủ cũng sẽ thành lập một chương trình học sinh sẽ vừa học vừa làm tại những công ty hợp tác với trường học để sau khi ra trường những sinh viên với những kỹ năng đã được huấn luyện trong thực tế đó sẽ thích ứng với công việc hơn. Ông Shiraishi cho biết: “Giới trẻ ngày nay sẽ là những người thừa kế và phát triển nền kinh tế Nhật Bản trong tương lai. Nếu không có những biện pháp hỗ trợ cho họ ngay từ bây giờ thì Nhật Bản sẽ bị tàn lụi nhanh chóng”.[5]

Khi giải quyết được vấn đề việc làm, giới trẻ sẽ có thu nhập ổn định và tác động mạnh đến vấn đề hôn nhân. Các công ty, tổ chức cần tạo điều kiện công bằng về chế độ lương, thời gian làm việc hợp lý cho những phụ nữ sau khi kết hôn và sinh con.

4.2. Về trào lưu tự tử tập thể trên Internet

Chính phủ đã thiết lập các đường dây nóng với những tư vấn viên dày dạn kinh nghiệm và đã qua huấn luyện để nhằm tư vấn, giải tỏa tâm lý của những furita có ý định tự tử. Cảnh báo và giáo dục lại tư tưởng, lối sống cho giới trẻ nói chung và các furita nói riêng để ngăn chặn bớt những cái chết vô nghĩa có thể xảy ra.

4.3. Về vấn đề tội phạm và tệ nạn xã hội

Cải cách và nâng cao giáo dục là biện pháp quan trọng và cấp thiết để giảm bớt những tệ nạn xã hội mà các furita gây ra. Bắt đầu từ năm 2002, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã giảm 1/3 lượng chương trình cho học sinh tiểu học để giảm bớt áp lực học tập cho học sinh. Ngoài ra, thiết lập chương trình tăng cường sự gắn kết trong hoạt động giữa cha mẹ và con cái. Khi có những kiến thức cơ bản và vững chắc thì thanh niên sẽ có những định hướng rõ ràng, đúng đắn về nghề nghiệp và tránh được các tệ nạn xã hội.

Tháng 12 năm 2000, chính phủ đã giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự từ 16 xuống 14 tuổi để ngăn chặn nạn phạm pháp trong độ tuổi vị thành niên.

Ngoài ra, bằng cách thu hút những đối tượng trẻ tuổi này làm việc thường xuyên trong ngành nông nghiệp, chính phủ Nhật Bản hy vọng giải quyết được hai vấn đề cùng một lúc: vừa bổ sung được lượng nhân công cần thiết cho ngành nông nghiệp, vừa giảm bớt được số lượng furita đang ngày càng tăng.

Nền kinh tế Nhật Bản đang từng bước được khắc phục, số lượng người làm việc tự do có phần giảm xuống nhưng nó vẫn tồn tại ở số nhiều. Người ta thậm chí còn đặt một cái tên mới cho những người ở độ tuổi dưới 30 là “Shinjinrui” (giống người mới). Họ không tuân theo nội quy trường học, phá vỡ các nguyên tắc ứng xử ngoài xã hội, không còn theo đuổi mô hình làm việc cả đời, một tuần sáu ngày cho công ty nữa. Nhiều người trong số họ bỏ học và đi làm bán thời gian để đổi lấy thời gian và tự do, nhiều người không dám đối diện với cuộc sống mà họ đang tồn tại mà tự khép mình trong thế giới riêng. Điều đó đã hình thành nên một xã hội đầy rẫy những người làm việc tự do không kiểm soát nổi.

Hiện tượng này không chỉ tồn tại ở Nhật mà ở bất cứ quốc gia nào cũng vậy. Nó tồn tại như quy luật tất yếu của một xã hội phát triển. Từ thực trạng của Nhật Bản đã mang lại cho các nhà kinh tế, các nhà xã hội học, các nhà quản lý văn hóa Việt Nam một cái nhìn rõ nét về mặt trái của xã hội hiện đại; đem lại cho các bậc cha mẹ những kinh nghiệm trong việc giáo dục, định hướng và nuôi dạy con em mình trong thời kỳ hiện nay; và đem đến cho chúng ta – thế hệ trẻ Việt Nam một cái nhìn thực tế hơn về cuộc sống xung quanh, về những nguy hại mà có thể chính mình sẽ là người gây ra cho xã hội.

 

Tài liệu tham khảo

1. Ngô Xuân Bình, Hồ Việt Hạnh (Đồng chủ biên) (2002), Nhật Bản năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Nguyễn Duy Dũng, Nguyễn Thanh Hiền (Chủ biên) (2003), Nhật Bản năm 2002: Cuộc cải cách vẫn còn tiếp diễn, Nxb Thống kê, Hà Nội.

3. Phan Cao Nhật Anh, Đỗ Thị Ánh (2002), Quan niệm về hôn nhân trong giới trẻ Nhật Bản và những xu hướng chủ yếu, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 6(42).

4. http://en.wikipedia.org/wiki/Freeter

5. http://www.nri.co.jp/news/2004/041101.html

 

Người thực hiện: Vũ Thị Thu – K53, Đông Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

Đăng Website NCNB ngày: 5-3-2012.



[1] Nguồn: http://en.wikipedia.org/wiki/Freeter

 

[2] Nguồn: http://www.nri.co.jp/news/2004/041101.html.

 

[3] Nguồn: http://vietbao.vn/Xa-hoi/Gioi-tre-Nhat-len-tieng/40213521/157/

 

[4] Nguồn: Phan Cao Nhật Anh, Đỗ Thị Ánh (2002), Quan niệm về hôn nhân trong giới trẻ Nhật Bản và những xu hướng chủ yếu, Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 6(42).

[5] Nguồn: http://vietbao.vn/The-gioi/Nhat-Ban-Nhuc-nhoi-van-nan-that-nghiep-trong-gioi-tre/45120142/159/

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn