GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở NHẬT BẢN - SO SÁNH VỚI VIỆT NAM

Đăng ngày: 31-07-2012, 21:37

Trong sự hình thành và phát triển tính cách, năng lực của mỗi con người, giáo dục đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đặc biệt, giáo dục bậc phổ thông (bao gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông) được xem là giai đoạn nền tảng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển năng lực và nhân cách của trẻ em sau này.

Chính vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến việc làm sao có thể xây dựng được một nền giáo dục nhà trường phổ thông hoàn hảo, giúp phát huy tối đa khả năng độc lập tư duy, cá tính và sức sáng tạo ở mỗi trẻ em, đồng thời  tạo cho các em có đủ những kỹ năng cần thiết để bước vào cuộc sống. Hiện nay, trong xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, nền giáo dục phổ thông ở mỗi nước đang đứng trước những thách thức to lớn: một mặt cần phải đổi mới để phù hợp sự phát triển của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao về tri thức ở tiêu chuẩn quốc tế, mặt khác phải chú trọng đến việc đào tạo con người có vốn hiểu biết chung toàn diện, đảm bảo sự phát triển hài hòa trí - đức - thể - mỹ. Bên cạnh những vấn đề chung như vậy, nền giáo dục phổ thông của hai nước Việt Nam và Nhật Bản hiện còn phải đối mặt với những vấn đề riêng do hoàn cảnh đặc thù của từng nước.

Bài viết này sẽ phân tích những thách thức mà nền giáo dục phổ thông của hai nước đang phải đối mặt, trong mối tương quan so sánh với nhau, đồng thời nêu lên những giải pháp và bài học kinh nghiệm cho từng nước.

1. Một số vấn đề của giáo dục phổ thông ở Nhật Bản

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nền giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông ở Nhật Bản đã có một diện mạo mới. Luật cơ bản về giáo dục được ban hành tạo điều kiện cho mọi trẻ em được học tập miễn phí, nâng tỷ lệ phổ cập giáo dục lên đến 99,98% và tỷ lệ vào học THPT là 94% vào thời điểm những năm 1980. Quy mô giáo dục cũng được mở rộng với số trường học và số học sinh tăng đáng kể: năm 1997 có tổng cộng 24.376 trường tiểu học, 11.257 trường THCS và 5.496 trường THPT. Có thể nói, sự mở rộng của giáo dục đáng chú ý tới mức những thập niên sau chiến tranh được gọi là “kỷ nguyên bùng nổ giáo dục” ở Nhật Bản.

Song, sự phổ biến của giáo dục, đặc biệt là giáo dục trung học đã khiến cho số học sinh trung học học lên cao hơn (cao đẳng, đại học…) tăng lên nhanh chóng và kết quả là Nhật Bản bắt đầu phải đối mặt với một vấn đề xã hội nảy sinh ra từ con số lớn những người học cao: sự cạnh tranh gay gắt trong học tập và thi cử để có thể bước chân vào các trường trung học danh tiếng - trường đại học danh tiếng - văn phòng làm việc có mức thu nhập cao. Cạnh tranh căng thẳng không chỉ hạn chế trong các trường trung học mà còn mở rộng trong các học sinh tiểu học muốn vào các trường THCS công lập và dân lập danh tiếng. Thậm chí, một số bậc cha mẹ nhiệt tình đã bắt đầu cho con mình tham gia vào cuộc cạnh tranh ngay từ bậc mẫu giáo. Theo đó, ngành công nghiệp luyện thi đầu vào bắt đầu phát triển.

Quan sát vào những năm 80 cho thấy có sự bùng nổ “cơn sốt học thêm” ở Nhật Bản với gần 2/3 trên tổng số học sinh học thêm ở cuối cấp một, 3/4 học sinh học thêm ở cuối cấp hai và thậm chí ngay từ bậc mẫu giáo cũng có tới 1/6 số em đi học thêm. Người Nhật gọi thời kỳ này là thời kỳ của “các bà mẹ bị ám ảnh bởi giáo dục” (kyoiku no mama), nhiều bà mẹ đã cùng ngồi học với con cái mình tại các lò luyện thi, hỗ trợ tinh thần cho chúng trong cuộc đua tranh thi cử khắc nghiệt không ngoài mục đích để vào được các trường trung học nổi tiếng, sau đó là các trường đại học danh tiếng. Hiện tượng này ở Nhật Bản cùng gần giống với Việt Nam trong những năm gần đây. Lấy ví dụ về TP HCM, theo số liệu thống kê của sở giáo dục thành phố thì hiện nay có tới 70% số học sinh trong các trường tham gia học thêm, ở cuối cấp tiểu học và THCS thì con số này là 100%. Lý do đi học thêm có khá nhiều. Trước hết là do sự quá tải của khối lượng kiến thức trên lớp khiến phần lớn trẻ em nếu không đi học thêm thì không đủ khả năng theo kịp chương trình học, không thể đạt điểm số cao trong các kỳ thi. Một nguyên nhân nữa, có lẽ cũng giống như trường hợp của Nhật Bản, một mặt xuất phát từ việc đề cao giá trị học vấn, coi trọng bằng cấp, mặt khác do điều kiện kinh tế được nâng lên rõ rệt, trong khi số trẻ em trong gia đình ngày một ít đi khiến cho các bậc phụ huynh có điều kiện đầu tư nhiều hơn cho việc học hành của con cái. Ngoài ra, ở Việt Nam, việc dạy thêm, học thêm còn phát sinh từ mục đích cải thiện đời sống cho người giáo viên, khi mức lương của họ còn quá thấp so với các ngành nghề khác.

Quay trở lại trường hợp của Nhật Bản, trong những năm đó, vấn đề học thêm và sự ám ảnh của các kỳ thi chuyển cấp đã gây ra sức ép lớn trong cuộc sống nhà trường, sự căng thẳng về tinh thần, mệt mỏi về thể chất là hiện tượng phổ biến ở trẻ em. Thêm nữa, việc đối phó với các kỳ thi tạo cho các em thói quen học thuộc lòng, nhồi sọ một cách máy móc, thiếu tính sáng tạo. Để trừ bỏ vấn nạn này, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã kêu gọi một sự đổi mới toàn diện trong nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy, trước hết là cách nhìn nhận mới về học lực, không dựa trên điểm thi, bằng cấp. Chương trình đào tạo gộp bậc THCS và THPT, bỏ kỳ thi chuyển cấp và các hình thức đánh giá kết quả học tập không chỉ qua bảng điểm mà còn dựa vào hoạt động thực tiễn của bản thân học sinh trong các giờ học đạo đức, sinh hoạt ngoại khoá, hoạt động tình nguyện… đã tạo ra một diện mạo mới cho giáo dục, giảm bớt phần nào sức căng trong cuộc sống nhà trường. Nhưng, những hậu quả do sức ép của xã hội bằng cấp trong thời gian hàng chục năm chưa phải trong một lúc đã xoá bỏ được ngay. Sau thời kỳ của “cơn sốt học thêm” là cuộc khủng hoảng trầm trọng trong tinh thần trẻ em Nhật Bản. Kết quả là vào cuối thập kỷ 80 nạn bạo lực, bắt nạt, chán học, bỏ học trong giới học sinh tăng lên nhanh chóng và tồn tại đến tận ngày hôm nay như những vấn đề nhức nhối trong nền giáo dục Nhật Bản. Có thể đưa ra một vài con số như sau: Năm 1998 có tổng cộng 29.685 vụ bạo lực xảy ra ở 5.917 trường phổ thông công lập, trong đó ở cấp tiểu học là 1.528 vụ tại 557 trường, chiếm 2,3% tổng số trường tiểu học, ở cấp THCS là 23.005 vụ tại 3.551 trường, chiếm 33,8% tổng số trường THCS, ở cấp THPT là 5.152 vụ tại 1.809 trường, chiếm 43,5%. Đây là một con số đáng báo động. Bên cạnh đó là nạn bắt nạt (ijime). Sau hàng loạt vụ tự tử thương tâm của các em học sinh cấp I, II do "bị bắt nạt" vào năm 1985, nhờ biện pháp "xiết chặt quy chế" trong các trường phổ thông, các vụ bắt nạt tạm thời lắng xuống nhưng không hoàn toàn chấm dứt. Theo thống kê năm 1998, vẫn còn 36.396 vụ bắt nạt xảy ra trên toàn nước Nhật. Đằng sau nạn bạo lực, bắt nạt là hiện tượng nghỉ học, bỏ học giữa chừng. Trong vòng 10 năm, từ năm 1991 đến nay, số học sinh cấp I, II nghỉ học mỗi năm thường xuyên ở mức trên 100.000 người và số học sinh cấp III bỏ học cũng tương tự con số đó.

Vậy, nguyên nhân của những vấn đề trên là gì?

Nguyên nhân thứ nhất nằm ở sự bất cập của hệ thống giáo dục. Sau chiến tranh, các trường trung học được tổ chức lại theo các tuyến của hệ thống công trạng, chủ yếu hướng vào hệ thống tuyển chọn nhân sự và nghề nghiệp. Điều nay làm tăng tình trạng cạnh tranh thi vào số ít các trường nổi tiếng. Giáo dục nhà trường dần dần bị biến dạng thành một nền giáo dục chỉ tập trung vào thi tuyển sinh. Trong khi đó, sự đánh giá của nhà trường đối với kết quả học tập của học sinh còn phiến diện, thiếu công bằng. Nội dung giáo dục chưa đáp ứng được trọn vẹn các yêu cầu đa dạng đối với sự phát triển năng lực và cá tính của từng học sinh, việc giáo dục chưa điều hoà được cả ba yếu tố trí - đức - thể, chưa đào tạo được con người phát triển toàn diện.

Nguyên nhân thứ hai ở vấn đề giáo dục trong gia đình: gia đình chưa làm tròn nhiệm vụ dạy dỗ cơ bản và chưa tạo điều kiện cho trẻ em sớm tiếp cận với các nguyên tắc của cuộc sống.

Cuối cùng là nguyên nhân khách quan, do sự thay đổi của xã hội Nhật Bản, quá trình đô thị hóa, gia đình hạt nhân hóa, thu hẹp môi trường sinh hoạt cộng đồng hiện nay đang làm mờ nhạt dần mối liên hệ và sự đồng cảm giữa con người với con người.

Những vấn đề như vậy ở Nhật Bản rất có thể cũng sẽ là vấn đề mà giáo dục Việt Nam phải giải quyết trong tương lai. Song, trước khi tìm hiểu kinh nghiệm giải quyết vấn đề của chính phủ và ngành giáo dục Nhật Bản, chúng tôi muốn điểm qua vài nét về tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam trong những năm gần đây.

2. Một số vấn đề của giáo dục phổ thông ở Việt Nam

Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách giáo dục năm 1981, trải qua hơn 20 năm đổi mới, giáo dục phổ thông ở Việt Nam đã có những chuyển biến đáng kể về quy mô và chất lượng, đạt được những thành tựu nhất định. Hiện nay gần 94% dân cư từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đều đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập tiểu học. Một số tỉnh và thành phố đang tiến tới đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ này là tương đương, nếu so sánh với Trung Quốc - một nước lớn trong khu vực, song cũng có những khó khăn như Việt Nam trong việc phổ cập giáo dục (VD: các vấn đề về dân tộc thiểu số, sự chênh lệch phát triển kinh tế giữa các vùng, miền…)[1]. Về giáo viên, tuy chưa đáp ứng được đầy đủ so với nhu cầu giáo dục ở từng cấp, song nhà nước đã cố gắng đào tạo mỗi năm một số lượng khá lớn. Tỷ lệ học sinh/giáo viên của Việt Nam ở mức độ gần đúng với chuẩn quốc tế, cấp tiểu học là 28,03, cấp THCS là 26,32 và THPT là 29,65 vào năm học 2000-2001. Tuy nhiên đây chỉ là tỷ lệ trung bình trên toàn quốc, còn trong thực tế tỷ lệ này rất thấp ở vùng núi, vùng sâu xa và hải đảo nhưng lại cao ở các thành phố lớn. Về kinh phí cho giáo dục, trong khoảng 10 năm đã tăng đáng kể. Theo số liệu điều tra của Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, năm 1991 kinh phí chi cho giáo dục so với tổng kinh phí nhà nước là 11,6%, đến năm 2000 đã tăng lên 15,6%. Còn kinh phí giáo dục trên đầu học sinh so với GDP đầu người tăng từ 1,9% lên 3,4%, gấp hai lần. Tuy nhiên, con số này vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Về chất lượng giáo dục, hiện nay đã có những chuyển biến bước đầu. Một chương trình giáo dục phổ thông thống nhất được thực hiện trên toàn quốc, bộ SGK trong trường phổ thông hiện hành phần nào đã gắn được các kiến thức, kỹ năng cơ bản với những yêu cầu của giai đoạn phát triển mới của đất nước. Trên cơ sở đó, trình độ hiểu biết và năng lực tiếp cận tri thức mới của học sinh phổ thông đang dần được nâng cao.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định như vậy, song giáo dục phổ thông Việt Nam vẫn còn bộc lộ nhiều mặt yếu kém, nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

Chất lượng giáo dục - đào tạo đại trà ở các cấp bậc học còn thấp. Năng lực tư duy độc lập, sáng tạo và kỹ năng thực hành của học sinh còn yếu. Hiện nay vẫn tồn tại khuynh hướng nhồi nhét tri thức thiên về lý thuyết, “hàn lâm hóa”, dạy và học chủ yếu để đối phó với các kỳ thi, nhất là thi tuyển vào đại học. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng học thêm tràn lan, hiện tượng quá tải trong học tập, ảnh hưởng đến hứng thú học tập và sức khỏe của trẻ em. Bên cạnh đó, chương trình giảng dạy phổ thông còn ít quan tâm đến lĩnh vực thực hành, ứng dụng, đặc biệt là ứng dụng vào tình huống thực tiễn. Một số kiến thức và kỹ năng rất cần cho người lao động trong giai đoạn hiện nay như ngoại ngữ, tin học chưa được chú trọng đúng mức để đưa vào giảng dạy nên chưa đạt được chất lượng cần thiết.

Phương pháp dạy học cũng đang là một điểm yếu của giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay. Đó là lối dạy thiên về truyền thụ một chiều, dạy chay, dạy theo lối luyện thi với lối học thụ động, nặng về ghi nhớ máy móc.

Bên cạnh đó, các điều kiện cơ bản đảm bảo chất lượng giáo dục vẫn còn nhiều bất cập như: đội ngũ giáo viên còn thiếu về số lượng (hiện thiếu khoảng 18.700 giáo viên bậc trung học), cơ cấu phân bổ giáo viên giữa các vùng, miền còn chưa đồng bộ, hạn chế về năng lực, trình độ, phương pháp giáo dục lạc hậu, phương tiện giảng dạy thiếu thốn. Việc tổ chức thi cử, đánh giá kết quả vẫn còn nặng nề, ít hiệu quả.

Tất cả những điều trên dẫn đến một hiệu quả giáo dục thấp. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp cuối cấp so với nhập học đầu cấp thấp, nhất là vùng núi, vùng sâu, vùng xa: năm 2000, tỷ lệ này ở cấp tiểu học là 70,8%, THCS là 69,4%, THPT là 78,2%. Số học sinh lưu ban, bỏ học ở các cấp còn cao và chưa có chiều hướng giảm trong mấy năm gần đây: riêng trong năm 2000, ở cấp tiểu học là 2,7% và 4,6%, THCS là 1,9% và 8,5%, THPT là 1,3% và 7,7%.

Ngoài ra, vẫn còn tồn tại những hiện tượng thiếu kỷ cương trong giáo dục phổ thông như nạn dạy thêm, học thêm tràn lan không vì mục đích giáo dục, tăng quy mô tuyển sinh vượt quá các điều kiện đảm bảo chất lượng, không thực hiện nghiêm túc quy chế đào tạo. Hiện tượng mua bằng, bán điểm làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà trường và thầy, cô giáo. Hiện tượng gian lận trong kiểm tra, thi cử của học sinh vẫn còn phổ biến, ảnh hưởng xấu đến nhân cách người học và thái độ lao động của họ sau này.

Nguyên nhân của những yếu kém trên về mặt chủ quan là do sự yếu kém của hệ thống quản lý giáo dục trong thời kỳ chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường, chậm đưa ra những chính sách vĩ mô đúng đắn để xử lý các vấn đề trong giáo dục-đào tạo, các văn bản pháp quy về giáo dục chưa được ban hành kịp thời dẫn đến sự khập khiễng giữa các chủ trương đổi mới với tình hình thực tiễn… Về mặt khách quan, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, thu nhập quốc dân trên đầu người thấp, nguồn tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị đều thiếu thốn trong lúc nhu cầu của xã hội đối với giáo dục-đào tạo tăng nhanh. Đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa làm thay đổi thang giá trị xã hội, ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách con người. Ngoài ra, những khó khăn trong việc cải cách hành chính nhà nước, quản lý kinh tế, tài chính, chính sách tiền lương... cũng cản trở việc giải quyết triệt để những vấn đề cụ thể của giáo dục-đào tạo.

3. Giải pháp cho vấn đề - Phương hướng phát triển của giáo dục trung học ở Nhật Bản và Việt Nam

Nếu như với Việt Nam, những khó khăn của giáo dục phổ thông nằm ở mọi phương diện, từ cơ sở vật chất cho giáo dục (số lượng, chất lượng giáo viên, trường, lớp, công cụ giảng dạy…) đến những bất cập trong chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy thì đối với Nhật Bản - một quốc gia phát triển, những vấn đề đó đa phần đã được giải quyết. Tuy nhiên, sự nhiệt tình thái quá đối với giáo dục trong thời kỳ nền kinh tế phát triển cao, cộng với những thay đổi xã hội đã làm nảy sinh các vấn đề rối loạn về tâm, sinh lý của trẻ em, nạn bạo lực, chán học, bỏ học… ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục như đã nêu trên.

Như vậy, mục tiêu trước hết của giáo dục phổ thông Nhật Bản là phải xóa bỏ “xã hội học lịch”, chạy theo bằng cấp; thay đổi hình thức dạy học kiểu nhồi nhét phiến diện một chiều bằng cách nới lỏng chương trình học chính quy trên lớp, tạo cho trẻ em những khoảng "tự do" để tự học tập, suy nghĩ, phát triển cá tính; đa dạng hoá nội dung học tập và linh hoạt quy chế tuyển sinh. Bên cạnh đó, phải chú trọng tới việc xây dựng nhân cách con người toàn diện, nâng cao tinh thần cộng đồng, biết cảm thông, chia sẻ với người khác. Phương hướng thực hiện là:

 Nâng cao sức giáo dục của gia đình và địa phương. Ngoài trường học thì gia đình và môi trường địa phương là những nơi trực tiếp có ảnh hưởng tới sự phát triển nhân cách của trẻ em. Vì vậy, hiện nay Nhật Bản đang xây dựng các chương trình hoạt động cho trẻ em tại các địa phương, có sự  tham gia của gia đình, nhằm tạo cho trẻ em cơ hội tiếp cận với những nguyên tắc của cuộc sống thực tiễn.

‚ Đẩy mạnh giáo dục đạo đức, nhân cách trong nhà trường bằng cách đổi mới các giờ học đạo đức, hoàn thiện hệ thống tư vấn tâm lý, giải quyết triệt để nạn bạo lực, bắt nạt.

ƒ Xây dựng một cuộc sống nhà trường mở, cho trẻ em những khoảng thời gian thoải mái để có thể tự học tập, suy nghĩ, khám phá thế giới theo những cách nhìn khác nhau, từ đó hấp thu được các kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.

„ Thực hiện chế độ nhà trường có khả năng phát huy cá tính và tạo cho học sinh cơ hội lựa chọn môn học phong phú. Nội dung và phương pháp giảng dạy phải được sửa đổi theo hướng đa dạng hóa, giảm dung lượng các môn học bắt buộc, tăng các môn tự chọn. Tiến tới hợp nhất đào tạo bậc THCS và THPT, tạo điều kiện cho sự phát triển liên tục của mỗi cá nhân.

… Nâng cao tư cách và chất lượng của người giáo viên. Kiện toàn đội ngũ giáo viên. Thời đại mới của giáo dục đòi hỏi người giáo viên phải có lòng yêu nghề, sự am hiểu sâu sắc về các giai đoạn phát triển trí tuệ và thế chất của trẻ em, có những tri thức khoa học chuyên môn sâu rộng và năng lực chỉ đạo thực tiễn cơ bản. Vì vậy, các năng lực này rất được chú trọng trong quá trình đào tạo, tuyển dụng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho giáo viên. Bên cạnh đó, mỗi trường đều phân chia nhiệm vụ và công tác chuyên môn giữa nhóm giáo viên giảng dạy và nhóm giáo viên đàm thoại - tư vấn tâm lý, thể hiện sự coi trọng đồng đều việc giảng dạy kiến thức và chăm sóc tới đời sống tinh thần của học sinh.

Còn đối với Việt Nam - một đất nước mới bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nền giáo dục phổ thông còn đang đứng trước một rừng những vấn đề khó khăn, phần lớn do sự bất cập trong chương trình, nội dung giảng dạy thì để thoát ra khỏi tình trạng này, cần phải:

 Nhanh chóng đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, cải tiến hệ thống SGK nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Trước hết cần tăng cường tính thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi trọng kiến thức xã hội và nhân văn, bổ sung những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại (mục tiêu là đến năm 2010 có thể nối mạng Internet trong phần lớn các trường, trước hết là trường trung học). Nhanh chóng tiếp cận trình độ giáo dục phổ thông ở các nước trong khu vực. Ngoài ra, cần phải cải cách phương thức tuyển sinh, đánh giá kết quả thi sao cho đảm bảo tính công bằng, nghiêm túc, khách quan, giảm bớt nặng nề, tốn kém.

‚ Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành trong cả nước.

ƒ Đổi mới công tác quản lý giáo dục. Quy định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn của mỗi ngành, mỗi cấp trong việc thực hiện chức năng quản lý giáo dục, kết hợp quản lý theo ngành và theo địa phương, thực hiện xã hội hoá giáo dục.

„ Quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên bậc trung học nhằm thực hiện mục tiêu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông.

… Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để đáp ứng nhu cầu phát triển và phổ cập phục vụ cho việc đào tạo theo chương trình THCS, THPT mới.

 

Nhìn chung, mặc dầu còn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức, song với công cuộc cải cách giáo dục lần thứ ba ở Nhật Bản và chiến lược phát triển giáo dục 10 năm (2001 - 2010) ở Việt Nam, nền giáo dục phổ thông của hai nước đang dần dần đổi mới để đáp ứng những yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Ths. Ngô Hương Lan

Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 6 năm 2004.

 

(Đăng lại từ website Nghiên cứu Nhật Bản cũ).

 

Tài liệu tham khảo

  1. Các chính sách phát triển văn hoá, giáo dục nước ta. Bộ Giáo dục Nhật Bản, Tokyo, 1999. (Tiếng Nhật)
  2. Giáo dục Nhật Bản hiện nay trong gia đình và nhà trường. Akira Nohara. Công ty in ấn trung ương, 1993. (Tiếng Nhật)
  3. Educational Reform. Ministry of Education, Science, Sport and Culture Government of Japan, Tokyo, 2000.
  4. Giáo dục Nhật Bản. Hội thông tin giáo dục quốc tế. NXB Chính trị quốc gia, 2001.
  5. Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo 2001 - 2010 phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hà Nội, 2001.

 

 

 

 

 

 

 

 

 



[1] Năm 1997, Trung Quốc còn 6% người trong độ tuổi 15-40 bị mù chữ.

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn