GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xã hội bằng cấp cao và những vấn đề của nền giáo dục Nhật Bản

Đăng ngày: 3-08-2012, 21:34

Xã hội bằng cấp cao đã hình thành ở Nhật Bản trong khoảng 30 năm trở lại đây. Vào những năm 1970, cứ 4 người Nhật thì có 1 người thi đỗ vào các trường cao đẳng hoặc đại học. Tuy nhiên, do xã hội bằng cấp phát triển, theo thống kê năm 2005, cứ 2 người thì có 1 người học lên đại học hoặc cao đẳng và tỉ lệ này vẫn tiếp tục được duy trì đến nay. Đặc biệt, từ năm 1990 trở đi, tỷ lệ học lên trong giới nữ cũng khá cao, tới 54% (tỉ lệ này ở nam giới là 56%). Xuất phát điểm của xã hội bằng cấp là do trong thời kỳ phát triển kinh tế cao độ, nước Nhật cần một nguồn lao động có chất lượng cao để làm việc tại các công ty, xí nghiệp đang mở rộng quy mô sản xuất với tốc độ chóng mặt. Các công ty, đặc biệt là những công ty lớn khao khát nhân tài đến mức “dòm ngó” đến cả những sinh viên đại học còn đang ngồi trên ghế nhà trường năm thứ 3, thứ 4 tại các trường đại học danh tiếng. Mảnh bằng đại học thời kỳ những năm 60-70 được người Nhật ví như “tấm hộ chiếu để vào được các hãng lớn”, nơi có thể đảm bảo cho họ mức lương cao, cuộc sống sung túc và một việc làm ổn định suốt đời ở đó.

Một nguyên nhân khác của xã hội bằng cấp là đời sống kinh tế người dân Nhật Bản phát triển nhanh chóng vào những năm 70, cộng với mô hình gia đình hạt nhân với bố, mẹ và từ 1 đến 2 con rất phát triển, khiến cho các bậc cha mẹ có điều kiện hơn trong việc nuôi dạy và chăm sóc con cái, đặc biệt là có điều kiện kinh tế chu cấp cho con đi học tại các lớp học thêm, các “lò luyện thi” để có thể “tranh tài” trong các cuộc đua thi cử khắc nghiệt từ cấp 2 lên cấp 3, cấp 3 lên đến các trường đại học danh tiếng. Nguyên nhân thứ ba, có thể nói là nguyên nhân quan trọng nhất dẫn tới sự hình thành và phát triển của xã hội bằng cấp như hiện nay, đó là sự thay đổi sâu sắc trong ý thức người Nhật Bản về việc muốn cho con học lên cao, về sự bình đẳng nam nữ trong cơ hội được đi học, và trên hết, là việc muốn khẳng định năng lực bản thân trong xã hội. Tuy nhiên, mới xuất hiện trong một thập kỷ trở lại đây, còn có một nguyên nhân nữa, đó là học lên cao như một sự lựa chọn trong điều kiện còn chưa kiếm được việc làm thích hợp; việc học lên đại học hoặc cao học ở Nhật Bản hiện nay cũng không mấy khó khăn, khi mà con số các trường đại học đang thừa, còn sinh viên thì ngày càng ít đi trong tình trạng dân số già hóa. Và như vậy thì việc học lên, có bằng cấp cao không hẳn tương đương với trình độ học lực thực sự; ngay cả khi đã cầm tấm bằng tốt nghiệp, các cử nhân cũng chưa chắc tìm được việc làm xứng đáng. Thực tế đáng buồn là rất nhiều sinh viên ra trường lựa chọn những công việc tự do như bán hàng thuê, phục vụ tại các quán ăn nhanh Macdonal, làm những việc chẳng hề liên quan đến chuyên môn mà họ được đào tạo ở trường đại học. Điều này liên quan đến hiện tượng người làm công việc tự do “freeter” và hiện tượng “nid” mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần sau.

Vậy thì, ý thức người Nhật đã thay đổi như thế nào đối với việc học tập, có thể đưa ra một vài số liệu cụ thể. Trong giai đoạn tăng trưởng kinh tế cao độ từ những năm 1960 đến giữa thập kỷ 1970, tỉ lệ người Nhật học lên cao đẳng, đại học đã gia tăng nhanh chóng. Giai đoạn sau đó, tỉ lệ học lên cao đẳng, đại học trong nam giới Nhật Bản không thay đổi cho đến khi bước vào thập kỷ 1990, và từ năm 1990 trở đi lại có chiều hướng gia tăng. Về phía nữ giới, trong những năm giữa thập kỷ 1980, tỉ lệ nữ giới học lên các chương trình giáo dục bậc cao vẫn tiếp tục tăng, đến giữa những năm 1990 tuy có xu hướng giảm ở tỉ lệ nữ học cao đẳng, nhưng lại gia tăng ở tỉ lệ học lên đại học. Theo “Điều tra cơ bản về giáo dục nhà trường” do Bộ Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Nhật Bản tiến hành, vào thời điểm tháng 3/2008, tỉ lệ học lên cao đẳng và đại học ở nam giới là 56,5%, nữ giới là 54,1%, cho thấy tỉ lệ tham gia giáo dục bậc cao ở hai giới gần như ngang nhau. Nếu xem xét cụ thể về cơ cấu số lượng học lên cao ở cả hai giới, có thể thấy phần lớn nam giới theo học hệ đào tạo đại học 4 năm, trong khi đó, ở nữ giới tỉ lệ theo học tại các trường cao đẳng hoặc đại học ngắn hạn 2 năm chiếm hơn 50%, chỉ có 42,6% học hệ đại học 4 năm.

Một cuộc điều tra được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu tìm hiểu nguyện vọng của các bậc cha mẹ đối với việc cho con đi học đã được tiến hành. Đối tượng được phỏng vấn là các ông bố, bà mẹ có con đang học THCS, câu hỏi được thực hiện trong cuộc phỏng vấn là “anh (chị) muốn cho con mình học lên đến trình độ nào?”, có phân biệt hai trường hợp “đối với con trai” và “đối với con gái”.

Bảng 4: Nguyện vọng của các bậc cha mẹ đối với vấn đề giáo dục con trai[1]

 

Ở trường hợp của các bé trai, các ông bố bà mẹ muốn cho con trai học lên đại học là chiếm đa số, nhưng hầu như không có sự khác biệt trong vòng 35 năm qua, thường duy trì ở mức 64-68%.

Tuy nhiên, ở trường hợp của các bé gái, năm 1973, tỉ lệ cha mẹ “muốn cho con học lên cấp 3” là lớn nhất, chiếm 42%, sau đó liên tục giảm, đến năm 2008 tỉ lệ này chỉ còn là 13%.  Thay vào đó, tỉ lệ “muốn cho con học lên cao đẳng, trường chuyên dạy nghề” tăng liên tục, đến năm 1988 đạt mức cao nhất. Tỉ lệ cha mẹ “muốn cho con học đại học” nếu như vào năm 1973 là thấp nhất, chỉ chiếm 22% thì sau đó 10 năm đã bước vào ngưỡng tăng liên tục, đến năm 2008 đạt mức cao nhất là 52%, cho thấy ý thức của cha mẹ đối với việc học tập của con gái đã tăng lên rõ rệt.

Bảng 5: Nguyện vọng của các bậc cha mẹ đối với vấn để giáo dục con gái[2]

 

Xã hội bằng cấp cao trong một chừng mực nhất định, cũng tạo được những yếu tố có lợi cho sự phát triển của xã hội như: nhận thức của người dân được nâng cao, cung cấp nguồn lao động chất lượng cao đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành sản xuất trong xã hội, nâng cao chất lượng xã hội. Tuy nhiên, mặt trái của nó là “cơn sốt học thêm”, chạy đua thi cử, hình thành một nền giáo dục khoa cử, thiên về đánh giá năng lực con người qua các bài thi, sức ép trong học tập lớn, trẻ em bị căng thẳng, tress kéo dài dẫn đến những phán kháng như chống đối việc đến trường, nạn bạo lực học đường, bắt nạt, tự tử tăng cao trong giới học sinh. Mặc dù để khắc phục những vấn đề này, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã đề ra Chương trình cải cách giáo dục trên mọi phương diện như: giảm thời lượng học tập tại trường học, cải tiến chương trình sách giáo khoa - gắn học tập với việc trải nghiệm thực tế, cải tiến các giờ học đạo đức nhằm nâng cao sự quan tâm, chia sẻ giữa các em học sinh với nhau và với cộng đồng, xây dựng cơ chế cho việc thực hiện một xã hội học tập suốt đời -  hạt nhân trong chương trình xóa bỏ xã hội bằng cấp. Nhưng, những vấn đề xã hội đã nảy sinh và tồn tại hàng chục năm không dễ xóa bỏ ngay, và nếu giải quyết không tận gốc thì sẽ lại nảy sinh những vấn đề khác. Hiện tượng sau đây là một ví dụ:

Để giảm bớt “sức căng trong nhà trường” kéo dài hàng thập kỷ từ những năm 60-80, vào năm 1984, Bộ Giáo dục Nhật Bản đã đề ra chương trình “yuttori kyoiku” (tức là giáo dục nới lỏng) với nội dung chính là: giảm khoảng 1/3 giờ học tập chính quy trên lớp, tăng các hoạt động ngoại khóa, dã ngoại để các em học sinh có dịp gắn bó với thiên nhiên, với cộng đồng xã hội, chương trình hoạt động ngoại khóa là do các trường tự sáng kiến và thực hiện, không theo quy định của Bộ Giáo dục. “Yutori kyoku” đã trở thành từ khóa quan trọng của ngành giáo dục trong suốt thập kỷ 80 và đầu 90. Tuy nhiên, sau đó không lâu đã nảy sinh vấn đề “gaku ryoku teika” (giảm sút học lực) ở tất cả các cấp học, biểu hiện là kết quả kiểm tra trình độ của học sinh toàn quốc thấp đáng báo động, nguyên nhân được đoán định là do giảm quá nhiều giờ học chính khóa trên lớp. Trong khi đó, các vấn đề trầm trọng như nạn bạo lực học đường, bắt nạt, tự tử vẫn không có dấu hiệu suy giảm, con số học sinh “không đến trường” (nghỉ học quá 50 buổi học trong 1 năm mà không có lý do được gọi là “không đến trường”) tiếp tục tăng cao. Theo thống kê của Bộ Giáo dục Nhật Bản, trong vòng 20 năm qua, số học sinh tiểu học “không đến trường” tăng 1,9 lần, tỉ lệ này ở học sinh THCS tăng 2,3 lần, con số các vụ bạo lực học đường cũng gia tăng: 1,7 lần ở cấp tiểu học, 1,4 lần ở cấp THCS[3]. Như vậy, vấn đề cốt lõi không chỉ nằm ở hệ thống giáo dục mà còn ở lối sống, văn hóa ứng xử, quan niệm sống, các vấn đề xã hội như: quan hệ giữa người và người ngày càng lỏng lẻo, sự thiếu giao lưu, thiếu quan tâm đến trẻ em của gia đình và xã hội, gia đình ít con tạo ra sự cô độc, thiếu cảm thông, chia sẻ với người khác ở trẻ em Nhật Bản. Nếu các vấn đề xã hội không được giải quyết một cách triệt để thì vấn đề của nền giáo dục cũng không thể giải quyết tận gốc./.

Ths. Ngô Hương Lan

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

 

Nguồn: Trích Chuyên đề nghiên cứu năm 2010 “Văn hóa - xã hội Nhật Bản: những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỷ 21 và triển vọng đến 2020”. Ngô Hương Lan, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

Đăng Website Nghiên cứu Nhật Bản ngày:19-11-2010 

 



[1] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.66.

[2] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.66.

[3] Nguồn: Sách trắng giáo dục Nhật Bản. Website: http://www.mext.go.jp/b_menu/hakusho/html/hpab200901/detail/1296733.htm

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn