GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xã hội già hóa ở Nhật Bản

Đăng ngày: 4-08-2012, 15:58

Dân số Nhật Bản và số hộ gia đình hiện nay đang tăng lên, so với tỉ lệ tăng dân số 1,2 lần kể từ những năm 1970 đến nay, thì tỉ lệ tăng tổng số hộ gia đình đã lên tới 1,8 lần trong cùng thời gian. Giai đoạn bùng nổ dân số ở Nhật Bản là vào những năm 1970, sau đó tỉ lệ tăng dân số dần dần giảm xuống. Số người trung bình trong một hộ gia đình Nhật Bản cũng giảm liên tục; nếu như vào những năm 1960 quy mô hộ gia đình trung bình là 4,14 người, năm 1970 giảm xuống còn 3,41 người, năm 1980 là 3,22, năm 1990 là 2,99 người, thì đến năm 2005, chỉ còn 2,5 người/hộ gia đình. Các hộ độc thân (hộ 1 người) đã chiếm đến hơn ¼ tổng số hộ gia đình ở Nhật Bản, lên tới 27,9%[1].

Tuy nhiên, xem xét sự thay đổi cơ cấu dân số theo độ tuổi, có thể thấy tỉ lệ trẻ em (14 tuổi trở xuống) đã giảm sút nghiêm trọng, từ chỗ chiếm 24% dân số vào những năm 1970 xuống chỉ còn 13,7% vào năm 2005. Ngược lại, số người già trên 65 tuổi đã tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn này, từ 7,1% lên đến 20,1%. Bên cạnh đó, tuổi thọ trung bình của nam, nữ Nhật Bản đều tăng thêm 10 tuổi, từ năm 1977 đến nay, Nhật Bản liên tục giữ vị trí là quốc gia có tuổi thọ trung bình cao nhất thế giới.

Về tỉ lệ sinh đẻ, vào những năm 1970, trung bình một phụ nữ Nhật Bản đẻ dưới 2,08 người con trong vòng đời. Nhiều ý kiến cho rằng, nếu tỉ lệ sinh cứ tiếp tục duy trì ở tình trạng thấp như vậy sẽ dẫn đến giảm dân số, nhưng trên thực tế, do tuổi thọ trung bình của người Nhật Bản tiếp tục tăng lên, nên dân số vẫn tăng. Từ cuối những năm 1950 đến nửa đầu 1970, tỉ lệ sinh trung bình giữ ở mức trên dưới 2,08 người con/phụ nữ. Nhưng từ sau năm 1975 đến đã giảm xuống là 2,0 người con/phụ nữ, và cho đến năm 2005 thì tỉ lệ này là 1,26 người con/phụ nữ. Cứ như vậy, tỉ lệ sinh giảm và xã hội Nhật Bản bước vào tình trạng già hóa dân số ngày càng trầm trọng.

Trước hết, chúng ta hãy xem xét căn nguyên của vấn đề nhìn từ sự thay đổi trong ý thức, quan niệm của người Nhật Bản về vấn đề hôn nhân, gia đình và việc sinh con. Có một thực tế là, hiện nay, đa số người Nhật cho rằng “không nhất thiết phải kết hôn”, trong khi đó, cho rằng “đương nhiên phải kết hôn” chỉ là thiểu số. Kết quả của cuộc điều tra ý thức người Nhật Bản đối với vấn đề “hôn nhân” được Viện Nghiên cứu văn hóa truyền thông NHK tiến hành 5 năm một lần từ 1993 đến nay cho thấy quan niệm về hôn nhân của người Nhật Bản như sau:

 

Bảng 1: Quan niệm về hôn nhân của người Nhật Bản[2]

 

 

Như vậy là, ngay từ thời điểm đầu tiên tiến hành điều tra vào năm 1993, số người được hỏi cho rằng “không cần phải kết hôn” đã cao hơn con số cho rằng “cần kết hôn” và từ đó tới nay vẫn tiếp tục gia tăng. Cũng theo kết quả của cuộc điều tra này, khảo sát về quan điểm hôn nhân theo độ tuổi và giới tính cho thấy con số nữ giới “không cần hôn nhân” cao hơn nam giới, và tỉ lệ thanh niên cho rằng “không cần hôn nhân” nhiều hơn ở lớp người có tuổi. Ở nữ giới, nữ thanh niên theo quan niệm “không hôn nhân” nhiều hơn thế hệ trước họ, cho thấy khuynh hướng không kết hôn ngày càng trở nên rõ nét ở thế hệ trẻ.

Sự khác biệt giữa nam và nữ cũng hết sức lý thú. Theo cuộc điều tra năm 2008, ở nữ giới, tỉ lệ nữ thanh niên cho rằng “không cần hôn nhân” nhiều hơn tỉ lệ này ở phụ nữ trên 30 tuổi, chiếm tới hơn 80%, đặc biệt, tỉ lệ này ở nữ thanh niên 20 tuổi lên đến gần 90%. Tỉ lệ nam thanh niên “không cần hôn nhân” cũng cao, nhưng so với nữ giới, chỉ ở mức dưới 80%.

 

Bảng 2: Quan niệm “không cần kết hôn” của nam nữ Nhật Bản (2008)[3]

* Kết quả về sự khác biệt ở nam và nữ, người chưa kết hôn và đã kết hôn trong quan niệm cho rằng “không cần hôn nhân”.

* Toàn bộ

Nam giới

Nữ giới

Tỷ lệ chênh lệch

Chưa kết hôn

74%

87%

13%

Đã kết hôn

48%

60%

12%

Tỷ lệ chênh lệch

26%

27%

 

Một kết quả điều tra khác cho thấy, có mối quan hệ giữa việc “có bằng cấp cao” và “không lấy chồng” ở nữ giới Nhật Bản. Khoảng 15 năm trở lại đây, tỉ lệ “không kết hôn” ở cả hai giới đều gia tăng, nhưng tỉ lệ nữ giới có “bằng cấp cao” (trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học) không lấy chồng nhiều hơn ở người “tốt nghiệp phổ thông trung học”. Ở nữ giới có bằng cấp cao, nếu như tỉ lệ không kết hôn vào thời điểm điều tra năm 1993 chỉ là 14% thì đến năm 2008 đã tăng lên đến 58%, cho thấy càng học cao, phụ nữ càng ít nghĩ đến chuyện lấy chồng.

Về lý do chưa hoặc không kết hôn, có 37% nghĩ rằng “do mình còn trẻ”, 15% nghĩ rằng “do không cảm thấy sự cần thiết hoặc ý nghĩa của hôn nhân”, 20% cho rằng “vì muốn dồn sức cho công việc hoặc việc  học tập”, 15% nghĩ rằng “vì muốn làm những điều mình thích trước đã”, 15% “không muốn đánh mất tự do và lạc thú của bản thân”, 31% “chưa gặp được đối tượng thích hợp”, 12% “không có cơ hội gặp người khác giới”, 17% “do không có tiền”. Điều này cho thấy, không phải tất cả những suy nghĩ trên đều phủ định hôn nhân. Tuy nhiên, các quan niệm  xã hội trong quá khứ về hôn nhân đã mất dần, và vai trò quyết định tuyệt đối của mỗi cá nhân trong việc lựa chọn giữa việc “kết hôn” và “không” đang tăng lên.

Quan niệm về vấn đề con cái cũng thay đổi mạnh mẽ. Trật tự truyền thống “hôn nhân - tình dục - có con” đang bị phá vỡ, số người theo chủ nghĩa “không sinh con” đã gia tăng liên tục từ những năm 1970 đến nay. Theo “Thống kê tình hình dân số” của Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản, vào năm 1973, khi cuộc bùng nổ dân số Nhật Bản lần thứ hai đang ở đỉnh cao, có 2.090.000 trẻ em ra đời mỗi năm. Nhưng đến năm 2003, con số này chỉ còn là 1.120.000 trẻ/năm, đến năm 2008, tiếp tục giảm sút, còn 1.090.000 trẻ/năm, chỉ bằng ½ so với thời điểm năm 1973. Sự sụt giảm này là do dân số của thế hệ cha mẹ, những người sinh ra thế hệ trẻ em ở Nhật Bản hiện nay đã giảm sút nghiêm trọng, dẫn tới số con của họ cũng giảm xuống. Tỉ lệ sinh trung bình của phụ nữ Nhật Bản trong độ tuổi từ 15 đến 49 cũng giảm liên tục trong vài chục năm trở lại đây, đến năm 2007 chỉ còn là 1,34.

Vấn đề đáng ngại nhất là ý thức “không sinh con” ngày càng trở nên phổ biến ở Nhật Bản. Vào những năm đầu 1990, tỉ lệ cho rằng “cần có con” đã ở mức khá thấp - là 54%, đến năm 1998 giảm xuống còn 48%, và từ năm 2003 đến nay, số người theo khuynh hướng “không cần có con” đã vượt trên số người cho rằng “cần có con”.

Bảng 3: Quan niệm về vấn đề con cái[4]

 

 

 

Như vậy, có thể thấy, tỉ lệ người Nhật cảm thấy “hôn nhân là cần thiết”, và “đã kết hôn thì nhất thiết phải sinh con” đã dần dần giảm xuống kể từ năm 1993, trong khi tỉ lệ phủ định khuynh hướng trên đang ngày càng gia tăng. Quan niệm về tình dục cũng thay đổi, số người chấp nhận “đã yêu là có thể quan hệ tình dục” không ngừng tăng lên nhanh chóng trong vòng 20 năm trở lại đây. Đặc biệt, lớp người chấp nhận những quan niệm trái chiều về hôn nhân như trên chủ yếu là giới trẻ. Người Nhật Bản gọi tuýp người có cách nghĩ trái chiều như vậy là “đề cao cá nhân hơn gia đình”, và phải chăng đây cũng là một yếu tố lớn dẫn đến sự thay đổi bản chất gia đình ở Nhật Bản dẫn đến hiện tượng “gia đình một người”, hay còn gọi là “cá nhân hóa gia đình”. Theo kết quả điều tra về gia đình và giới, tỉ lệ của tuýp người theo chủ nghĩa “cá nhân hóa gia đình” vào năm 2008 là 24%, như vậy, cứ 4 người Nhật thì lại có 1 người thuộc tuýp này.

Tóm lại, vấn đề xã hội già hóa, tỉ lệ sinh thấp và lối sống độc thân là những vấn đề xã hội nan giải nhất hiện nay, đã xuất hiện từ vài thập kỷ, nhưng trầm trọng hơn trong những năm gần đây. Căn nguyên xuất phát từ sự thay đổi cơ cấu xã hội, gia đình, lối sống, giá trị quan của người Nhật Bản sau thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ. Và những vấn đề này, đến lượt nó, lại tương tác với nhau, cái này trở thành nguyên nhân của cái kia, tiếp tục tồn tại trầm trọng hơn trong 10 năm đầu thế kỷ XXI./.

 

Thực hiện: Ths. Ngô Hương Lan, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản.

 

Nguồn: Trích từ chuyên đề nghiên cứu năm 2010 “Văn hóa - xã hội Nhật Bản: những vấn đề nổi bật, xu hướng chủ yếu trong 10 năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng đến 2020”, Ngô Hương Lan, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

Đăng Website Nghiên cứu Nhật Bản ngày: 15-11-2010

 



[1] Nguồn: Theo Báo cáo nhanh của Bộ Y tế và Lao động Nhật Bản năm 2005.

[2] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, 2010, tr.22.

[3] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.24.

[4] Nguồn: “Cơ cấu ý thức người Nhật hiện đại”, tr.27.

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn