GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Chính sách cải cách của chính phủ Nhật Bản đối với các trường đại học

Đăng ngày: 18-08-2012, 12:55

Tatsuo Hatta

Viện nghiên cứu các vấn đề quốc tế Nhật Bản

Chính phủ Nhật Bản phân bổ và trợ cấp kinh phí nghiên cứu và giáo dục cho cả hai loại trường đại học công lập và dân lập.Chính phủ cũng cấp kinh phí nghiên cứu khác nhau cho các trường đại học và các nhà nghiên cứu độc lập. Bài viết này trình bày vai trò của chính phủ về chức năng hỗ trợ nghiên cứu và giáo dục cho các trường đại học và đề xuất cải cách hệ thống trợ cấp và các chính sách khác của chính phủ Nhật Bản đối với các trường đại học.

 

Các hoạt động nghiên cứu cơ bản mang lại ích lợi cho xã hội nói chung nên chính phủ phải hỗ trợ tài chính cho hoạt động nghiên cứu ở trường đại học. Thực tế cho thấy rằng trình độ nghiên cứu của các trường đại học ở Nhật Bản kém xa với các trường đại học ở Mĩ trên nhiều lĩnh vực. Để thu hẹp khoảng cách, cần thiết phải thực hiện cải cách.

 

Trước tiên, chính phủ nên tính đến việc chi trả tiền lương cho các giáo sư từ quỹ hỗ trợ trợ cấp  nghiên cứu khoa học - đây là trợ cấp chung được cấp bởi Bộ: Giáo dục Văn hoá Thể thao Khoa học và Công nghệ cho các nhà nghiên cứu và các cơ quan nghiên cứu. Với cách làm này, sẽ tạo ra một môi trường làm việc hiệu quả cho các giáo sư để họ tập chung hơn nữa vào hoạt động nghiên cứu. Một trong những nét khác biệt giữa vấn đề trợ cấp nghiên cứu của Nhật Bản và Mĩ, đó là trợ cấp của Mĩ bao gồm tiền lương cho các giáo sư nhưng ở Nhật thì không.Vì vậy mà nhiều giáo sư được nhận trợ cấp từ quỹ hỗ trợ nghiên cứu vẫn không thể bỏ nhiệm vụ giảng dạy và quản lí. Mặt khác, ở Mĩ những học giả nhận trợ cấp liên bang có thể được miễn nghĩa vụ ở cơ quan và dạy học ở trường đại học nơi họ làm việc và họ dành hết tâm huyết cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Ngoài ra Mĩ còn thuê các giáo sư đến thỉnh giảng và trang trải cho các học giả bằng việc sử dụng quỹ lương tiết kiệm được từ trợ cấp.

 

Thứ hai, chính phủ nên tăng mức trần từ quỹ hỗ trợ trợ cấp cho nghiên cứu khoa hoc lên đến 50%. Một tỉ lệ cao hơn mức trần sẽ khuyến khích các trường thuê các học giả lỗi lạc để có thể giành được trợ cấp nghiên cứu. Điều này cũng sẽ góp phần nâng cao chuẩn học thuật.

 

Thứ ba, nếu như chính phủ tăng số tiền hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu, thì nên trực tiếp tăng cho cá nhân hơn là cho tổ chức. Hiện đang có rất nhiều chương trình hỗ trợ cho các tổ chức nghiên cứu như chương trình COE toàn cầu, hỗ trợ những học giả ưu tú đứng ra thành lập trường đại học. Chương trình này cho phép nhưng học giả không hoạt động nhiều ở các trường đại học lớn có thể nhận một phần tài trợ từ một nhóm nhà nghiên cứu trong khi họ chuyển đến các trường đại học nhỏ với một hoặc hai học giả ưu tú Nếu như hệ thống trợ cấp cá nhân thay đổi cùng với mức lương trần cao, thì nó sẽ góp phần khích lệ các trường đại học thuê học giả xuất sắc, dù là số lượng có hạn, để làm việc trong một môi trường nghiên cứu mới.

 

Về phần giáo dục bậc đại học, chính phủ nên áp dụng theo hai hình thức sau. Thứ nhất nên mở rộng quỹ cho sinh viên vay vốn, gồm việc cấp chi phí sinh hoạt cho tất cả các sinh viên một cách bình đẳng. Cụ thể, chính phủ nên cân nhắc việc quy định điều khoản vay đảm bảo cho sinh viên vay vốn tại ngân hàng thương mại. Cho sinh viên vay vốn để trang trải cho chi  phí sinh hoạt và miễn giảm học phí là điều không thể thiếu cho những sinh viên xuất sắc. Tuy nhiên không giống như cho vay đối với các nhà máy và xí nghiệp, điều đó khó cho các ngân hàng để đảm bảo tiền vay học bổng - ngân hàng sẽ không thể ép buộc sinh viên làm việc để trả theo đúng thời hạn quy định. Đó là lí do tại sao thị trường cho học sinh vay vốn không xuất hiện một cách rõ ràng. Ở Mĩ,  số lượng sinh viên vay vốn chưa tốt nghiệp tăng đột biến sau khi chính phủ liên bang bắt đầu bảo lãnh cho các ngân hàng trong năm 1970. Nhật Bản nên khuyến khích các ngân hàng bắt đầu cho chương trình vay vốn sinh viên bằng việc bảo lãnh khoản cho sinh viên vay vốn.

 

Thứ hai, chính phủ nên yêu cầu các trường đại học công khai các mục tiêu mà sinh viên khi ra trường có khả năng vận dụng được. Khi một trường đại học mới mở hoặc một cơ sở được thành lập ở Nhật Bản thì các chương trình giảng dạy và các bài giảng của các giáo sư phải được kiểm định bởi một Hội đồng tư vấn bao gồm các học giả nổi tiếng về mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, các thông tin đưa lên Hội đồng không được công khai, chỉ một vài cơ quan chưc năng kiểm tra chất lượng đào tạo ở đại học và các ban ngành sau 5 năm thành lập. Tại nơi kiểm định của hội đồng tư vấn, chính phủ nên yêu cầu các trường đại học đưa ra một loạt các thông tin bao gồm cả những thông tin đã được đưa công khai trên trang web. Các trường đại học nên đưa các thông tin bao gồm cả những thành tích của các giáo sư, số lượng sinh viên cho mỗi lớp, định hướng nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp và cả nhận xét đánh giá khóa học. Bộ giáo dục cũng cần kiểm tra nội dung để đảm bảo chắc chắn những thông tin đưa ra là chính xác. Một hệ thống như vậy có thể đánh giá và xếp hạng các trường đại học từ những góc độ khác nhau.

 

Nếu như chính phủ thực hiện những cải cách đã nêu bằng trợ cấp, hỗ trợ cho sinh viên vay vốn và yêu cầu cao hơn đối với các tổ chức giáo dục khi đưa ra thông tin, thì tính cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu của các tổ chức giáo dục bậc cao của Nhật sẽ cải thiện đáng kể. Những cải cách này không nhất thiết chỉ áp dụng cho hai loai trường đại học dân lập và công lập. Cải cách cũng nên áp dụng đối với cả các trường dạy nghề và kĩ thuật.

 

 

Người dich: Lương Ngọc Hà

Thực tập sinh - Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

(Bài đăng lại từ Website NCNB cũ).

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn