GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Thành công của “Abenomics” xoay quanh chính sách nhập cư

Đăng ngày: 22-05-2014, 17:59

Thành công của “Abenomics” xoay quanh

chính sách nhập cư

Trong tháng ba, Hidenori Sakanaka, một cựu giám đốc của văn phòng khu vực xuất nhập cảnh Tokyo, đã liên lạc  và gặp gỡ  với một nhóm người mà ông chưa bao giờ mơ ước được gặp : những nhà quản lý tài sản của các công ty đầu tư toàn cầu.

Sakanaka, hiện đang đứng đầu Viện Chính sách Nhập cư Nhật Bản tại Tokyo, đã được yêu cầu giải thích chính sách nhập cư nổi tiếng chặt chẽ của Nhật Bản và đề xuất của ông để giảm bớt đáng kể những chính sách này, nhằm cứu Nhật Bản khỏi những hậu quả nghiêm trọng của tình trạng dân số già đi nhanh chóng và suy giảm nhanh chóng.

Sakanaka cho biết các nhà quản lý tài sản thể hiện sự quan tâm mạnh mẽ trong một nhận xét do Thủ tướng Shinzo Abe đưa ra tháng trước. Họ đã tự hỏi liệu họ có thể mua được các tài sản Nhật Bản, chẳng hạn như cổ phiếu và bất động sản.

Trong tháng hai, Thủ tướng Abe cho biết ông đang xem xét nới lỏng chính sách nhập cư của Nhật Bản, chấp nhận lao động nhập cư nhiều hơn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài hạn.

Theo như báo cáo, các nhà quản lý tài sản bao gồm nhà đầu tư khổng lồ BlackRock Inc và Capital Group: "Nhà đầu tư toàn cầu có một chính sách nhất quán là không đầu tư vào một quốc gia có dân số lao động và tiêu dùng bị thu hẹp".

"Nếu dân số lao động giữ nguyên tình trạng thu hẹp, nó sẽ tiếp tục đẩy tiêu dùng xuống, và đất nước sẽ không thể duy trì được sự tăng trưởng kinh tế. Trong ngắn hạn, điều này có nghĩa là chiến lược tăng trưởng “Abenomics” không thể thành công mà không chấp nhận người nhập cư.

Thủ tướng Abe cố gắng thành lập trong tháng Sáu "mũi tên thứ ba" trong chương trình kinh tế của mình - Cải cách cơ cấu và các khoản trợ cấp để có thể thúc đẩy tiềm năng của Nhật Bản cho tăng trưởng từ trung hạn đến dài hạn.

Cho dù việc bãi bỏ quy định nhập cư một cách quyết liệt có là một phần của mũi tên thứ ba hay không, cũng là điều mà cả công chúng Nhật Bản và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đều muốn biết.

Dân số Nhật Bản sẽ giảm đáng kể trong năm thập kỷ tiếp theo, từ 117.520.000 vào năm 2012 xuốn còn  87 triệu ở năm 2060 - nếu tỷ lệ sinh không tăng. Tỷ lệ sinh dự kiến ​​sẽ dao động ở 1.39 trong năm nay trước khi giảm xuống đến 1,33 vào năm 2024 và vươn lên đến 1,35 trong tương lai gần .

Tổng sản phẩm quốc nội được dự đoán sẽ giảm theo, có thể biến nền kinh tế lớn thứ ba trên thế giới này thành một tay chơi có vai trò thứ yếu cả về kinh tế và chính trị, đây là điều khiến nhiều người lo sợ .

"Có nên chấp nhận nhiều người nhập cư hay không là một vấn đề liên quan đến tương lai của đất nước chúng ta và toàn bộ đời sống của nhân dân. Tôi hiểu rằng chính phủ nên nghiên cứu nó từ góc độ khác nhau sau khi trải qua các cuộc thảo luận cấp quốc gia", Thủ tướng Shinzo Abe nói với Ủy ban Ngân sách Hạ viện vào ngày 13/3 vừa qua như vậy.

Vào ngày 12 tháng 5, các thành viên của một ban cố vấn chính phủ về bãi bỏ quy định đặc biệt về đề xuất tạo ra sáu khu vực đặc biệt, quy định thị thực sẽ được nới lỏng để thu hút nhiều chuyên gia nước ngoài và người giúp việc và người giữ trẻ để hỗ trợ họ .

Chỉ số Nikkei hàng ngày được Chính phủ báo cáo có vẻ như việc bãi bỏ quy định thị thực cho một số người nước ngoài đang được “chèn” vào Cải cách “Abenomics”  vào tháng Sáu, nhưng con số mà ông sẵn sàng cho là bao nhiêu vẫn còn là điều chưa rõ ràng .

Cho đến nay các chính trị gia bảo thủ có vẻ miễn cưỡng trong việc thúc đẩy việc nhập cảnh mạnh bạo và chuyển đổi một cách mạo hiểm xã hội Nhật Bản vốn ổn định nhưng khá cứng nhắc và độc quyền.

Thủ tướng Abe chủ trương Nhật Bản sẽ cấp cho nhiều người nước ngoài từ ba đến năm năm thị thực hơn là để một số lượng lớn người nhập cư vĩnh viễn tại Nhật Bản.

“Người nhập cư” là gì? Mỹ là một đất nước của những người nhập cư đến từ khắp nơi trên thế giới và thành lập Hoa Kỳ. Nhiều người đã đến đất nước này và trở thành một phần của nó. “Chúng tôi sẽ không chấp nhận một chính sách như thế”, ông  Abe nói trên một chương trình truyền hình phát sóng ngày 20/4/2014.

“Mặt khác, có một sự thật chắc chắn là dân số Nhật Bản sẽ tiếp tục thu hẹp và Nhật Bản sẽ thấy một sự thiếu hụt lao động trong các lĩnh vực sản xuất khác nhau”, ông Abe nói thêm về việc ông sẽ xem xét nới lỏng các quy định về cấp thị thực từ ba đến năm năm .

“Nó không phải là một chính sách nhập cư. Chúng tôi muốn họ làm việc và nâng cao thu nhập cho một khoảng thời gian giới hạn và sau đó trở về nhà”, Thủ tướng Abe tuyên bố.

Những người ủng hộ các nhà lập pháp của LDP bao gồm bản thân ông Abe, là những cử tri dân tộc chủ nghĩa đối lập với số lượng lớn những người chào đón lao động nước ngoài không có tay nghề, những người đang bị cấm vào Nhật Bản. Họ sợ rằng cho phép những người như vậy nhập cư sẽ làm tăng tỷ lệ tội phạm và tước đoạt cơ hội việc làm của những người Nhật Bản trong nền kinh tế vẫn còn chậm chạp. Mối quan tâm này dường như được chia sẻ bởi đa số ngưồi Nhật. Theo một cuộc thăm dò của tờ Yomiuri Shinbun hàng ngày trong tháng Tư, trong khi 74 phần trăm trong số 1.512 người được hỏi cho biết họ tin rằng suy giảm dân số sẽ làm tổn thương nền kinh tế của Nhật Bản và tiếp tục góp phần vào sự suy giảm này, 54% nói rằng họ phản đối đưa nhiều người nước ngoài vào Nhật Bản, và con số này lớn hơn mức 37% những người ủng hộ ý tưởng nới lỏng chính sách nhập cư.

Hai quan chức cấp cao thân cận của Thủ tướng Abe dấu tên cho biết họ nhận thức rằng các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến những thay đổi tiềm năng trong chính sách nhập cư của Nhật Bản.

Nhưng mối quan tâm chính của họ dường như là để giữ cho các nhà đầu tư nước ngoài quan tâm đến Nhật Bản, và giao dịch trên thị trường chứng khoán Tokyo, chứ không phải là chuyển đổi Nhật Bản thành một xã hội đa văn hóa bằng cách chấp nhận những người nhập cư nhiều hơn.

Một trong hai quan chức gần gũi với ông Abe đã nhiều lần nói rằng Thủ tướng đang quan tâm sâu sắc tới các nhà đầu tư nước ngoài, và chỉ ra rằng họ - chứ không phải là những nhà đầu tư Nhật Bản - đã đẩy giá chứng khoán lên kể từ khi ông Abe lên nắm quyền vào tháng Mười Hai năm 2012.

“Chúng tôi sẽ không gọi nó là một chính sách nhập cư, nhưng tôi nghĩ chúng ta nên chấp nhận lao động nước ngoài”, quan chức này nói vào tháng Hai.

Thúc đẩy việc nhập cư là một vấn đề nhạy cảm đối với Đảng bảo thủ Dân chủ Tự do, quan chức này nói. Nhưng ý tưởng sử dụng chúng để lấp đầy sự thiếu hụt nhân lực trong một số lĩnh vực như điều dưỡng, chăm sóc trẻ em, sức khoẻ, y tế..., sẽ dễ chấp nhận hơn với các chính trị gia, vị quan chức này nói thêm.

Việc Thủ tướng Abe kêu gọi lao động nhập cư ngắn và trung hạn có thể giúp xây dựng ngắn hạn các ngành công nghiệp y tế và điều dưỡng, và một số lĩnh vực  khác. Nhưng nó không có khả năng giải quyết cuộc khủng hoảng dân số dài hạn của Nhật Bản .

Junichi Goto, giáo sư kinh tế tại Đại học Keio và một chuyên gia về các vấn đề nhập cư nói rằng ít người phản đối việc đưa các chuyên gia nước ngoài vào Nhật Bản để phục hồi năng lực nền kinh tế, và việc bãi bỏ quy định đó là hết sức cần thiết.

Tuy nhiên, khi nói đến lao động phổ thông, ông Goto phản đối việc lấp đầy những thiếu hụt của Nhật Bản với lao động giá rẻ và cho rằng một sự đồng thuận quốc gia về vấn đề này vẫn chưa được hình thành.

Theo các nghiên cứu và mô phỏng của Goto đưa vào mức lương thấp, người nước ngoài không có tay nghề sẽ làm người tiêu dùng được hưởng lợi bằng cách thúc đẩy việc giảm chi phí lao động trong nước và do đó giảm giá cả hàng hóa và dịch vụ, qua đó thúc đẩy tiêu dùng. Mặt khác, ông dự đoán chi phí của giáo dục trong nước, dịch vụ công cộng và y tế khác sẽ tăng .

Những lợi ích mà người nước ngoài mang đến Nhật Bản sẽ lớn hơn những nhược điểm, trừ khi Nhật cho phép họ nhập cư quá nhiều, nghiên cứu Goto nói.

"Nếu người dân Nhật Bản muốn chấp nhận hàng triệu lao động nước ngoài, đó sẽ là việc tốt. Nhưng tôi không nghĩ rằng họ đã sẵn sàng cho một sự thay đổi xã hội lớn như vậy chưa", Goto nói .

Thay vào đó, ông Goto lập luận rằng Nhật Bản đầu tiên nên khuyến khích nhiều phụ nữ và người cao tuổi làm việc để bù đắp sự hao hụt trước mắt. Sau đó, nên giảm bớt các quy định để thu hút các chuyên gia nước ngoài chứ không phải là lao động phổ thông, và cải cách hệ thống lương dựa trên thâm niên cứng nhắc để làm cho nó dễ dàng hơn đối với người nước ngoài có tay nghề bậc trung, để họ gia nhập vào thị trường lao động Nhật Bản.

Ở bất kỳ mức nào, những thay đổi về nhân khẩu học nhanh chóng đang diễn ra tại Nhật Bản không có khả năng cho người dân Nhật Bản nhiều thời gian để họ đưa ra quyết định.

Tỷ lệ người cao niên 65 tuổi trở lên sẽ tăng từ 24% lên đến mức 39,9% trong năm 2060 , tăng gánh nặng cho thế hệ trẻ để hỗ trợ an sinh xã hội .

Hội đồng Chính sách Nhật Bản, một nhóm nghiên cứu trí thức từ các lĩnh vực khác nhau, ước tính rằng trong năm 2040, 896 thành phố của Nhật Bản, hay hầu như một nửa, sẽ nhìn thấy số lượng phụ nữ trong độ tuổi 20 và 30 giảm hơn một nửa từ năm 2010 khi họ đổ xô đến các thành phố lớn .

Thành phố như vậy "cuối cùng có thể biến mất" ngay cả khi tỷ lệ sinh hồi phục, nhóm này đã cảnh báo trong một báo cáo ngày 08/5 vừa qua.

Sakanaka ca ngợi lời bình luận của ông Abe trong tháng hai cho rằng đó là một thay đổi đáng kể từ sự miễn cưỡng lâu nay của Nhật Bản chấp nhận lao động nước ngoài .

Nhưng nếu Thủ tướng Abe quyết định mở cửa Nhật Bản chỉ cho người di cư ngắn hạn, chứ không phải là những người nhập cư vĩnh viễn, Abenomics sẽ kết thúc trong thất bại, ông Sakanaka cảnh báo.

Nguồn :

1. Shaun Richards, What happens if Abenomic fail in Japan, http://www.mindfulmoney.co.uk/

2. Reiji Yoshida, Success of ‘Abenomics’ hinges on immigration policy, The Japan Time.http://www.japantimes.co.jp/

 

Tổng hợp và dịch tin: Thu Thuỷ, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản.

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn