GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

“XÃ HỘI VÔ CẢM” VÀ GIAI ĐOẠN CUỐI ĐỜI TRONG THỜI ĐẠI ÍT TRẺ EM - GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở NHẬT BẢN (phần 1)

Đăng ngày: 13-06-2014, 15:34

  1. 1. “Xã hội vô cảm” và “giai đoạn cuối đời”

Từ “xã hội vô cảm” lần đầu tiên được biết đến ở Nhật Bản khi đài truyền hình NHK phát sóng chương trình “Xã hội vô cảm - Cú sốc với 32.000 người chết cô đơn không ai biết tới”. Nhóm làm phim NHK tiến hành điều tra tại các tỉnh thành trên toàn nước Nhật trong một năm và thống kê được 32.000 người chết do đói, rét, đột quỵ và cả những trường hợp tự sát mà không xác định được nhân thân. Những người chết trong cô độc, mất sợi dây liên kết với xã hội đang ngày càng nhiều, và cái xã hội thiếu sự liên kết giữa người và người ấy được gọi là “xã hội vô cảm” (Theo NHK, “Chương trình xã hội vô cảm”, Biên tập: Ban Thông tin tư liệu, 2010).

Nhà kinh tế học Tachibanaki Toshiaki cho rằng Nhật Bản đang bước vào giai đoạn “xã hội vô cảm” - thiếu sự liên kết, một xã hội đang gia tăng những người sống không tiếp xúc với người khác, những người chết vì cô độc, không ai quan tâm, số người tự sát hàng năm lên tới hơn 3 vạn người (Tachibanaki Toshiaki, “Chính thể xã hội vô cảm”, PHP, 2011). Ở đất nước phát triển với cuộc sống đầy đủ, sung túc này, mối quan hệ con người mờ nhạt đến mức ngày càng nhiều người chết mà không ai biết tới, đang dần dần làm hình thành một “xã hội vô cảm”.

Xu hướng “xã hội vô cảm” không phải là hiện tượng chỉ xuất hiện ở Nhật Bản. Nhà chính trị học người Mỹ, Robert David Putnam, đã miêu tả trong cuốn “Chơi Bowling một mình” (Kashiwa Sobou, 2006) hình ảnh về những người già thừa thời gian, quan hệ cộng đồng trước đây không còn nữa, mối quan hệ giữa người và người đã thay đổi hoàn toàn trong xã hội Mỹ.

Trái ngược lại, cơn đại địa chấn xảy ra tại Nhật Bản vào ngày 11/3/2011, kèm theo sóng thần và sự cố hạt nhân ở nhà máy điện nguyên tử Fukushima số 1 đã trở thành thảm hỏa kép chưa từng có trong lịch sử Nhật Bản, cướp đi sinh mạng, nhà cửa, gia đình của nhiều người nhất kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Hình ảnh những người gặp nạn giúp đỡ lẫn nhau trong khung cảnh đau thương, chết chóc đã làm rung động toàn thế giới. Bởi vậy, chữ “Bạn” được chọn làm khẩu hiệu cho sự phục hồi.

Dù là “sự ra đi” thanh thản trong gia đình, bên những người thân, hay mất đi sinh mệnh do thiên tai, con người chúng ta ai ai rồi cũng phải đối mặt với cái chết. Từ một cuộc sống đói khát, chiến tranh, nhiều bệnh tật, Nhật Bản đã phát triển thành một xã hội tiến tiến, tự do, tuổi thọ ngày càng dài và thậm chí có thể dự đoán được. Bởi vậy, hiện nay rất cần có những chương trình hỗ trợ nhằm hướng tới cuộc sống tuổi già khỏe mạnh.

Tháng 11 năm 2010, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản đã tổ chức một dự án nghiên cứu nhằm hỗ trợ giai đoạn cuối đời của người già bao gồm cả khi kết thúc cuộc sống và những công việc liên quan. Ngay sau thảm họa động đất ở miền Đông Nhật Bản, tháng 8 năm 2011, Bộ này tiếp tục công bố bản báo cáo “Xây dựng Ngành dịch vụ giai đoạn cuối đời”, hướng tới chữ “Bạn”, tạo dựng sự an tâm, tin tưởng trong cuộc sống lúc cuối đời”. Bài viết này sẽ tìm hiểu bối cảnh xã hội ấy cùng với những nội dung và ý nghĩa của chính sách.

  1. 2. Bối cảnh ra đời của “xã hội vô cảm”

Già hóa dân số không phải là vấn đề của một mình Nhật Bản, song dường như “xã hội vô cảm” lại là hiện tượng đặc trưng riêng của xứ sở này. Như nhà chính trị học R. Putnam đã rung chuông cảnh tỉnh về sự biến đổi mối quan hệ xã hội, hay còn gọi là “vốn xã hội” (social capital) ở các nước tiên tiến, tính kết dính trong quan hệ xã hội của thành viên trong các “nhóm” đang yếu đi. Người dân sống tập trung ở các đô thị, sự gia tăng nhanh chóng việc di dân giữa các địa phương, thậm chí vượt qua cả biên giới quốc gia, đã làm gia tăng các mối quan hệ xã hội mang tính lựa chọn, tương tự như sự đến và ra đi của các nhóm xã hội.

Không giống với xã hội Âu Mỹ, nơi chủ nghĩa cá nhân và các nguyên tắc khế ước xã hội đã được hình thành từ xa xưa, xã hội Đông Á chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các yếu tố văn hóa như Nho giáo nên cho dù phát triển, nhưng những nguyên tắc cấu thành xã hội châu Á lại hoàn toàn khác. Quan điểm này đã từng rất phổ biến trong xã hội Nhật Bản. Xét ở khía cạnh “tinh thần tương trợ”, “tính hiếu thảo”, có thể thấy tư tưởng này liên quan đến tầm nhìn lạc quan hình thành nên hệ thống phúc lợi xã hội kiểu Nhật Bản khác với kiểu Âu Mỹ. Thế nhưng, giống như Âu Mỹ, các nước châu Á, trong đó có Nhật Bản, đang phải đối mặt với hiện tượng già hóa dân số, và có thể xã hội châu Á sẽ phải đi theo cách thức của các quốc gia Âu Mỹ phát triển.

Tổng sản phẩm quốc gia được qui định bởi dân số tham gia sản xuất, do  vậy, sức sản xuất của một xã hội đương nhiên chịu ảnh hưởng bởi sự già hóa dân số. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, những mối quan hệ xã hội được duy trì bởi dân số gia tăng mạnh, tất yếu sẽ thay đổi do tiến trình già hóa dân số. Qui mô gia đình nhỏ lại (từ gia đình nhiều thế hệ đến gia đình hạt nhân) và sự tập trung dân số từ các địa phương vào đô thị làm suy yếu quan hệ xã hội là điều không thể tránh khỏi ở bất kỳ xã hội phát triển nào.

Khác với sự thích ứng của các nước Âu Mỹ tiên tiến trong tiến trình dài hiện đại hóa, ở các khu vực như châu Á, châu Phi, hiện đại hóa được du nhập từ bên ngoài. Do đó, biến động dân số và hiện đại hóa diễn ra trong thời gian ngắn, hay còn gọi là “hiện đại hóa cưỡng bách”. Điều này đồng nghĩa với việc các mối quan hệ xã hội trong gia đình, địa phương biến đổi nhanh hơn so với các nước Tây Âu hiện đại.

 

  1. 3. Biến đổi dân số và già hóa

Sự biến đổi xã hội được dự báo như vậy dựa trên “Lý thuyết biến đổi dân số” - có khả năng dự đoán động thái dân số trong dài hạn. Theo quan điểm này, có giai đoạn tăng dân số trong khoảng thời gian dài, làm gia tăng lực lượng lao động, góp phần phát triển sức sản xuất xã hội (gọi là thời kỳ dân số vàng). Song vượt qua giai đoạn này là hiện tượng dân số trẻ giảm, dân số người già gia tăng và trở thành gánh nặng của toàn xã hội (gọi là thời kỳ gánh nặng dân số). Sẽ đặc biệt thú vị khi tìm hiểu tình hình dân số ở các nước châu Á trên cơ sở lý thuyết biến đổi dân số.

Ở đây, người viết thử bàn về nội dung của lý thuyết biến đổi dân số qua hai công trình phân tích dân số châu Á trong mối liên hệ với động thái dân số thế giới là: “Dự đoán tương lai xa của châu Á già hóa” của tác giả Komine Takao (NXB.Thời báo kinh tế Nhật Bản Nikkei, năm 2007) và “Châu Á già hóa” của tác giả Keiichiro Ooizumi (NXB.Chukou Shinsho, năm 2007).

Biến động dân số được giải thích theo 3 giai đoạn sau:

Trước hiện đại hóa, xã hội tập trung vào các ngành sản xuất cơ bản như nông nghiệp, khai khoáng,… cần đến số lượng lớn nhân công. Lúc này,  do tỉ lệ tử vong ở trẻ em cao, nên tỉ suất sinh cũng phải được duy trì ở mức cao, và xã hội thời này là “sinh nhiều, tử nhiều”.

Nhờ quá trình hiện đại hóa, sự phát triển kỹ thuật, y tế, vấn đề an toàn vệ sinh, chăm sóc dinh dưỡng liên tục được cải thiện, tỉ lệ tử vong ở trẻ em giảm mạnh. Song, quan niệm gia đình có nhiều con cái là gia đình sung túc vẫn chưa thay đổi, tỉ lệ sinh tiếp tục duy trì ở mức cao. Đây là giai đoạn xã hội “sinh nhiều, tử ít” và dân số gia tăng mạnh mẽ (dân số vàng).

Giai đoạn 3, thu nhập gia tăng, điều kiện sống ổn định ở mức cao và công nghiệp hóa phát triển, không cần thiết phải có nhiều trẻ em làm nguồn lực lao động và xây dựng tương lai. Hơn nữa, để đầu tư cho giáo dục, đào tạo trẻ em thành những con người có ích cho xã hội, việc giảm sinh đẻ, nuôi dưỡng ít trẻ nhưng chất lượng, là chiến lược đúng đắn. Lúc này, các biện pháp tránh thai được sử dụng  để hạn chế số lượng trẻ em ra đời, và đây là giai đoạn xã hội “sinh ít, tử ít”. Có thể thấy khi mức thu nhập quốc dân trên đầu người gia tăng, tổng tỉ suất sinh sẽ giảm xuống.

Thời kỳ “dân số vàng” như đã đề cập thuộc giai đoạn hai, khi đó thế hệ “sinh nhiều, tử ít” trưởng thành và trở thành nguồn nhân lực lao động dồi dào, trong khi dân số phụ thuộc (người già và trẻ em) ít, tạo nhiều lợi thế cho phát triển kinh tế.

Sau giai đoạn dân số tăng nhanh là giai đoạn ba, thời kỳ ít trẻ em, dân số lao động giảm, số người già phụ thuộc gia tăng. Đó là gánh nặng dân số làm suy giảm mức độ phát triển kinh tế mà mọi xã hội trong tiến trình biến đổi dân số đều phải chấp nhận.

Theo Keiichiro Oizumi, giai đoạn dân số vàng của Nhật Bản bắt đầu từ khoảng năm 1930-1935 và kết thúc trong khoảng 1990-1995. Mặc dù cũng có một số điều kiện tốt khác, nhưng tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Nhật Bản trước hết là nhờ phát huy tốt lợi thế của giai đoạn dân số vàng. Tương tự, sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của một số nước châu Á trong những năm gần đây đều bắt nguồn từ điều kiện dân số.

 

 

Người dịch: Phan Cao Nhật Anh, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản.

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn