GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

“XÃ HỘI VÔ CẢM” VÀ GIAI ĐOẠN CUỐI ĐỜI TRONG THỜI ĐẠI ÍT TRẺ EM - GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở NHẬT BẢN (phần 2)

Đăng ngày: 13-06-2014, 15:44

  1. 4. Quy mô gia đình thu hẹp và “Hệ thống phúc lợi xã hội kiểu Nhật Bản” đỗ vỡ

Tại sao “xã hội vô cảm” lại trở thành vấn đề nghiêm trọng trong những năm gần đây? Điều này có lẽ liên quan mật thiết đến sự thay đổi cơ bản của cơ cấu gia đình Nhật Bản. Nhà xã hội học gia đình Emiko Ochiai đã phát hiện ra những vấn đề vô cùng thú vị về chuyển đổi dân số và sự thiếu thời gian (time lack) dành cho gia đình Nhật Bản (Emiko Ochiai, “Gia đình thế kỷ 21”, Yuhikaku, tập 3, 2004).

Trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế cao độ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2, dưới áp lực của sự gia tăng dân số mạnh mẽ, những người lao động nông thôn đổ về các đô thị sinh sống lần đầu tiên được trải nghiệm công việc mới và lối sống mới, đã làm hình thành kiểu “gia đình hạt nhân” vốn khác xa với mô hình gia đình truyền thống của Nhật Bản. Trước kia, ở nông thôn, do yêu cầu lao động nông nghiệp tập trung, nên kiểu “đại gia đình” với nhiều thế hệ cùng sinh sống dưới một mái nhà là khá phố biến. Đại gia đình ấy, cùng với cộng đồng làng xã chính là những yếu tố nâng đỡ, chăm sóc người cao tuổi. Chính vì vậy, mặc dù lúc đó, điều kiện kinh tế thiếu thốn và tuổi thọ trung bình thấp, lại không hề có sự chăm sóc của hệ thống y tế và phúc lợi tiên tiến, song người già vẫn được hưởng một cuộc sống cuối đời khá hạnh phúc bên con cháu.

Trong thời kỳ kinh tế phát triển cao độ, vấn đề chăm sóc người già vẫn chưa trở thành gánh nặng xã hội tiềm ẩn. Bởi vì, kiểu “đại gia đình” đông con nhiều cháu cho phép phần lớn những người con ra thành phố lập nghiệp, nhưng  chí ít vẫn còn ai đó trong số họ ở lại quê nhà phụng dưỡng bố mẹ già. Chính “Mô hình phúc lợi kiểu Nhật Bản” vốn kỳ vọng nhiều vào vai trò của gia đình, đã ra đời và tồn tại trong những điều kiện như vậy.

Tuy nhiên, vào giai đoạn biến đổi dân số lần thứ ba, thế hệ sinh ra vào thời kỳ dân số vàng đã trở thành những người già, họ bước vào giai đoạn cuộc đời cần có ai đó bên cạnh chăm sóc, nhưng kiểu gia đình truyền thống với “một trong những người con ở lại chung sống và chăm sóc bố mẹ cho đến cuối đời” đang dần mất đi. Bởi vì, trước đây vào thời kỳ các gia đình có đông con cái, các con có thể phân công nhau gánh vác việc chăm sóc bố mẹ già. Thế nhưng, khi cục diện dân số thay đổi lần thứ ba, việc sinh ít con đã dẫn đến gánh nặng chăm sóc cha mẹ khi về già chỉ dồn lên vai một người con duy nhất. Mặt khác, tuổi thọ trung bình kéo dài dẫn tới quá trình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già cũng dài hơn, thậm chí, ngay cả khi những người con bước vào tuổi xế chiều thì họ vẫn phải tiếp tục mang gánh nặng ấy.

Còn một vấn đề nữa mà người viết muốn bàn tới, đó là điều kiện sống được cải thiện một cách đáng kể cùng với xã hội hiện đại hóa. Những người đã trải nghiệm cuộc sống qua thời kỳ nền kinh tế Nhật Bản phát triển cao độ đương nhiên có nhu cầu về tiêu chuẩn sống cao hơn hẳn các thế hệ trước đó. Một khi đã quen với cuộc sống sung túc và thoải mái trong thời kỳ hiện đại hóa, khi về già, họ rất khó có thể chấp nhận mức sống thấp hơn. Trong điều kiện như vậy, nâng cao sự quan tâm đến giai đoạn cuối đời của người cao tuổi Nhật Bản là cần thiết. Sống ở một ngõ ngách nào đó trong thành phố chật ních người, vậy mà phải ra đi trong cô độc, lạnh lẽo, không người thương khóc, có lẽ, điều này là vô cùng đáng sợ với hầu hết chúng ta. Nhưng rất nhiều người có thể dự đoán trước được tương lai buồn thảm ấy của chính mình trong cái xã hội mà quan hệ con người đang ngày càng mờ nhạt. Liệu đã có chính sách hành chính nào được đề ra để đối phó với tình trạng này? Với tư cách là Trưởng ban nghiên cứu của dự án “Nghiên cứu giai đoạn cuối đời của người già” do Bộ Kinh tế và công nghiệp Nhật Bản chủ trì, tôi xin giới thiệu một số nội dung của dự án này cũng như mô hình của hệ thống chăm sóc người già trong xã hội siêu già hóa.

  1. 5. Xây dựng ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời

Vào tháng 11 năm 2010, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản đã thành lập Ban nghiên cứu các chính sách hướng đến việc xây dựng “Hệ thống chăm sóc cuối đời”, tạo cho cho người già ở Nhật Bản sự an tâm, tin tưởng, đồng thời thảo luận về tính khả thi của một ngành mới - Ngành chăm sóc cuối đời trong xã hội Nhật Bản đang già hóa với tốc độ nhanh chóng.

Có thể nêu tóm tắt về ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu như sau: “Tìm kiếm một cách tiếp cận mới, một ý tưởng mới nhằm giải quyết vấn đề cộng đồng dân cư truyền thống đang bị suy yếu trong xã hội mà sự suy giảm dân số tự nhiên cùng song hành với siêu già hóa dân số”.

Cùng với việc nhìn nhận lại những vấn đề của nền kinh tế - xã hội Nhật Bản, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản lần đầu tiên đề xuất sáng kiến tạo dựng “một giai đoạn cuối đời mới” cho người già Nhật Bản. (Theo: “Hướng đến sáng tạo “Giai đoạn cuối đời” với sự an tâm và lòng tin”, Văn phòng quản lý các ngành dịch vụ, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản). Có nghĩa là, đây là một hệ thống chính sách nhằm đảm bảo cho chất lượng cuộc sống (QOL) của người già Nhật Bản trong giai đoạn cuối cùng của đời người, dưới các điều kiện về nhân khẩu học như đã đề cập ở phần trên.

Vậy thì, giai đoạn cuối đời (Life Ending Stage) được định nghĩa như thế nào? Gần đây, giới học sinh, sinh viên Nhật Bản hay dùng từ (Shuukatsu (tiếng Nhật viết là 「就活」(就職活動)), có nghĩa là “hoạt động tìm việc”, để nói về cuộc sống mới mà họ bắt đầu nếm trải khi kết thúc quãng đời học sinh trong nhà trường, bước vào “trường đời”). Như một cách chơi chữ, các phương tiện thông tin đại chúng ở Nhật Bản bắt đầu dùng từ (Shuukatsu (終活), đồng âm khác nghĩa với từ 「就活」 trên, để chỉ giai đoạn kết thúc cuộc sống của một con người). Một đằng là sự sáng tươi, tràn đầy năng lượng của giới trẻ khi lần đầu bước chân vào “xã hội”, một đằng là sự kết thúc cuộc sống lúc tuổi già. Từ này diễn tả những hoạt động cuối cùng của đời người đối với những người già như việc chuẩn bị tang lễ, phân chia tài sản và những việc cần làm khác sau khi một con người từ giã cõi đời. Tuy nhiên, nó được dùng như một từ không chính thống trong vốn từ vựng tiếng Nhật. Chính vì vậy, cần phải có một thuật ngữ chính thức cho hoạt động này, và Ban nghiên cứu của chúng tôi đã đặt ra thuật ngữ “Life Ending Stage”: “➀Việc chuẩn bị hậu sự và những việc cần làm sau hậu sự ngay từ khi còn sống (hành động), ➁Thời kỳ tái ổn định cuộc sống cho gia đình người quá cố (thời gian); “Life Ending Stage” chính là sự kết hợp của hai yếu tố này.

Bản báo cáo của Bộ Kinh tế và công nghiệp cũng đã phân tích hiện trạng xã hội siêu già hóa ở Nhật Bản. Nếu như vào năm 1980, con số người già sống một mình chỉ là 881.000 người, thì đến năm 1990 đã tăng lên 1.623.000 người, năm 2000 là 3.032.000 người, năm 2010 tiếp tục tăng lên đến 4.654.000 người và dự báo năm 2030 sẽ tăng tới 7.173.000 người. Bên cạnh đó, theo số liệu điều tra của Tổ chức tái cơ cấu đô thị, chỉ tính riêng các căn hộ độc thân thuộc những khu nhà chung cư mà tổ chức này quản lý, năm 1999 có tới 207 người chết mà không ai biết tới, năm 2003 con số này là 318 người, năm 2008 lên đến 613 người. Những hiện tượng như vậy đã khiến cho người ta phải dùng từ “xã hội vô cảm” để nói về thực trạng mối quan hệ giữa người và người trong xã hội Nhật Bản những năm gần đây. Và có thể dự đoán rằng vấn đề này sẽ tiếp tục diễn tiến với mức độ ngày càng trầm trọng hơn.

Người dịch: Ngô Hương Lan, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản.

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn