GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

“XÃ HỘI VÔ CẢM” VÀ GIAI ĐOẠN CUỐI ĐỜI TRONG THỜI ĐẠI ÍT TRẺ EM - GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở NHẬT BẢN (phần 3)

Đăng ngày: 14-06-2014, 10:58

  1. 6. Sự liên kết mật thiết giữa những người vận hành ngành Dịch vụ chăm sóc cuối đời

Cho đến nay, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản đã tiến hành xây dựng và phát triển “Ngành y tế chăm sóc sức khỏe” với ý nghĩa là cung cấp dịch vụ y tế và điều dưỡng cho cư dân địa phương. Song, chính phủ Nhật Bản đã nhận ra rằng, với diễn tiến nhanh chóng của xã hội siêu già hóa hiện nay, chỉ duy trì sức khỏe và điều trị phục hồi thương tật là hoàn toàn chưa đủ. Có nghĩa là, phải tiếp cận theo một hướng khác.

Con người chúng ta, ai ai rồi cũng có lúc sẽ phải rời bỏ sinh mệnh của mình. Vậy thì, phải chăng khi con người tiến gần tới cái chết, sẽ đối mặt với hai giai đoạn không thể tách rời: thứ nhất là giai đoạn cuối đời cần được chăm sóc sức khỏe, cung cấp dịch vụ y tế trị liệu cho tới lúc lâm chung, thứ hai là quá trình tái ổn định cuộc sống của gia đình họ - người quá cố. Như vậy, cần có một hệ thống cung cấp dịch vụ được chuyên môn hóa, với sự kết hợp của nhiều ngành nghề liên quan, nhằm thực hiện tốt nhất việc chăm sóc cuối đời này. Hệ thống cung cấp dịch vụ tổng hợp như vậy được đặt tên là “Ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời” (「ライフエンディング産業」), hướng tới mục tiêu cung cấp dịch vụ cao cấp, hoàn hảo, với nhân viên trong ngành được đào tạo bài bản, để người sử dụng dịch vụ có thể an tâm, tin tưởng.

Hoạt động trong “Ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời” gồm có: bác sĩ, ý tá, điều dưỡng viên - những người phụ trách việc chăm sóc sức khỏe, luật sư và các nhân viên tư vấn hành chính, ban quản lý hành chính tại địa phương, và những người hoạt động trong lĩnh vực tôn giáo và dịch vụ tang lễ. Sự liên kết và hợp tác chặt chẽ giữa những nhân viên trong ngành như trên sẽ đảm bảo cho những người dân sử dụng dịch vụ được đáp ứng một cách mau lẹ, chuyên sâu trong từng trường hợp, ngay cả khi nhu cầu và hoàn cảnh sử dụng dịch vụ thay đổi; và cho dù người sử dụng dịch vụ thiếu vắng các mối quan hệ xã hội, thì họ vẫn được cung ứng dịch vụ một cách liên tục và đa dạng.

Chúng ta hãy xem xét phác thảo cụ thể của ngành dịch vụ này. Việc chăm sóc sức khỏe hàng ngày cho người cao tuổi sẽ không bị giới hạn trong công việc của y, bác sĩ và những người làm việc trong ngành y tế, trị liệu. Với sự ra đời của ngành mới, trong giai đoạn cuối đời, người sử dụng dịch vụ sẽ được chăm sóc một cách đầy đủ và ra đi an lành với nghi lễ tôn nghiêm truyền thống. Đối với những người cao tuổi bị tàn tật, hệ thống này có khả năng cung cấp điều dưỡng viên chăm sóc sức khỏe cho họ tới lúc lâm chung. Với những người già có khó khăn, các nhân viên xã hội sẽ cung cấp dịch vụ tư vấn tại nhà cho họ.

Theo một kết quả điều tra xã hội học, phần lớn người già mong muốn được tiếp tục sống trong ngôi nhà thân quen của họ. Tuy nhiên, nếu họ là người tàn tật, sẽ cần tới nhân viên hành chính, tư pháp và kế toán tới tận nhà tư vấn cho họ quản lý và phân chia tài sản (trong trường hợp có người thừa kế). Hệ thống hỗ trợ về mặt hành chính và tài chính này sẽ giúp cho họ được sống lâu nhất có thể trong căn nhà của họ, hoặc trong trường hợp cần thiết, sẽ xử lý tất cả các vấn đề còn khúc mắc một cách thỏa đáng để họ có thể yên tâm vào các cơ sở dưỡng lão và được chăm sóc chuyên sâu.

Ngày nay, đã bước vào thời đại mà mỗi người chúng ta đều có thể ý thức và tự chuẩn bị cho sự ra đi của mình, thậm chí chuẩn bị cho cả giai đoạn sau khi ra đi. “Sổ tay cuối đời” (lưu giữ những số điện thoại và địa chỉ liên hệ khẩn cấp, hay ghi chép nguyện vọng về việc tổ chức tang lễ, những việc cần làm sau khi tử biệt…) đã bắt đầu được biết đến một cách rộng rãi, nhưng trên thực tế, số người sở hữu cuốn sổ tay này để chuẩn bị cho sự ra đi của chính mình còn chưa nhiều. Ngoài ra, để xử lý các vấn đề về tài chính, cũng cần sự có mặt của luật sư và các nhân viên hành chính, tư pháp tư vấn cho họ, kể cả việc giúp soạn thảo các văn bản hành chính cần thiết.

Tất nhiên, vào thời điểm một con người đón nhận cái chết, vai trò của tôn giáo là không thể thiếu. Và dịch vụ tang lễ chuyên nghiệp là một phần quan trọng trong ngành Dịch vụ chăm sóc cuối đời, giúp người già có thể tự lo liệu tang lễ của họ ngay từ khi còn sống.

Với những ý tưởng như vậy, sứ mệnh của ngành mới - Ngành Dịch vụ chăm sóc cuối đời, là đem đến một sự thay đổi cơ bản về việc chăm sóc người cao tuổi, chia sẻ gánh nặng với gia đình họ, giúp cho mỗi người già có thể “tự sáng tạo và trải nghiệm giai đoạn cuối đời của họ”. Đó cũng chính là lý do dẫn đến ý tưởng và nội dung nghiên cứu trên của Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản.

Thay cho lời kết, người viết sẽ đề cập về những vấn đề đang được tiếp tục đặt ra. Ý tưởng và hình ảnh cụ thể của Ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời đã được đề cập trong Báo cáo nghiên cứu gửi Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản. Tuy nhiên, để hoạt động của ngành mới này đi vào thực tiễn, vấn đề quan trọng nhất là đào tạo đội ngũ cán bộ trong ngành như thế nào? Khi một nhu cầu nảy sinh, tất nhiên, người ta chưa thể ý thức một cách đầy đủ về nó, đặc biệt là đối với những người già năng lực phán đoán đã có phần suy giảm, chính vì vậy mà cần có một đội ngũ dịch vụ viên có kỷ luật cao, có lương tâm nghề nghiệp. Họ cần phải dối xử với người sử dụng dịch vụ như những khách hàng vừa nhắm mắt giã biệt cõi đời, một cách không hám lợi. Việc đào tạo những nhân viên như vậy là vấn đề cần được tiếp tục bàn đến.

Nếu như việc xây dựng Ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời trở thành hiện thực, thì việc đào tạo những chuyên gia trong ngành (ví dụ như: bác sĩ, y tá, hộ lý, điều dưỡng viên, luật sư, kế toán viên, nhân viên xã hội, nhân viên tôn giáo, nhân viên dịch vụ tang lễ…) phải được đặt ra một cách nghiêm túc. Đội ngũ này không chỉ dừng lại ở trình độ chuyên môn và kỹ thuật cao, mà mỗi người trong số họ còn cần phải có kiến thức tổng hợp để đảm nhận vai trò của những người quản lý và vận hành bộ máy ngành. Có nghĩa là, để vận hành ngành dịch vụ mới vô cùng phức tạp này, đòi hỏi không chỉ những kiến thức chuyên môn và kỹ thuật, mà là khả năng quản lý một cách tổng thể.

Trong bài viết này, người viết đã phân tích những vấn đề mà xã hội siêu già hóa, ít trẻ em ở Nhật Bản sẽ phải đối mặt từ Lý thuyết Chuyển đổi dân số, trong đó, “xã hội vô cảm”, thiếu sự gắn kết giữa người và người đang là hiện tượng đáng lưu ý. “Xã hội vô cảm” mà chúng ta đang dần chạm đến đã đặt ra câu hỏi lớn về ý nghĩa cuộc sống và cách thức những người già trường thọ ở Nhật Bản trải nghiệm những năm tháng cuối cùng trong cuộc đời họ. Và người viết cũng đã đề cập đến dự án nghiên cứu của Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản về tính khả thi của ngành Dịch vụ chăm sóc cuối đời, như một hệ thống chính sách tổng hợp nhằm ứng phó với thực trạng xã hội đang diễn ra tại Nhật Bản. Tất nhiên, liên quan đến điều này, vẫn còn vô vàn những vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và khắc phục.

Chúng ta chỉ mới bắt đầu bước vào xã hội siêu già hóa, ít trẻ em chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Song, những vấn đề của nó đã hiện hữu ngay trước mắt và đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng có những giải pháp./.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn:

  1. Đài truyền hình NHK, “Chương trình xã hội vô cảm”, Biên tập: Ban Thông tin tư liệu, 2010.
  2. Tachibanaki Toshiaki, “Chính thể xã hội vô cảm: duyên huyết thống, duyên địa lý và duyên xã hội sụp đổ như thế nào”, Viện Nghiên cứu PHP, 2011.
  3. Putnam, R., Bowling Alone: The Collapse and Revival of American Community, Simon & Schuster, 2001.
  4. Văn phòng quản lý các ngành dịch vụ, Bộ Kinh tế và Công nghiệp Nhật Bản, “Hướng đến sáng tạo “Giai đoạn cuối đời” có sự an tâm và lòng tin – Xây dựng “Ngành dịch vụ chăm sóc cuối đời” - nơi có thể trao gửi cuộc sống với ý nghĩa mới của chữ “Bạn””, 2011. Trang web: http://www.meti.go.jp/press/2011/08/20110810002/20110810002-2.pdf
  5. Chủ biên: Komine Takao, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế Nhật Bản, “Dự báo xa về Châu Á già hóa -  Sự thay đổi khốc liệt dân số Thế giới và biểu đồ kinh tế”, NXB Báo Nikkei Shinbun, 2007.
  6. Ooizumi Keiichiro, “Châu Á già hóa - Khi cấu trúc phồn vinh thay đổi”, NXB Chuko Shinsho, 2007.
  7. Ochiai Emiko, “Gia đình thế kỷ 21 - Cơ cấu gia đình sau Chiến tranh: quan sát và tiến triển” (Tập 3), NXB. Yuhikaku, 2004.
  8. Kitou Hiroshi, “Lịch sử Nhật Bản từ vấn đề dân số”, NXB.Kodansha Gakujutsu Bunko, 2000.
  9. Katsumi Shimane, The Experience of Death in Japan’s Urban Societies, Natacha Aveline-Dubach ed., Invisible Population: The Place of the Dead in East-Asian Megacities, Lexington Books (2012)

 

Người dịch: Ngô Hương Lan, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn