GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

NHẬT BẢN CÂN NHẮC VIỆC TIẾP NHẬN NGƯỜI LAO ĐỘNG NƯỚC NGOÀI

Đăng ngày: 14-07-2014, 16:25

Nhật Bản muốn tiếp nhận thêm người lao động nước ngoài

Chính phủ Nhật Bản cho biết, tính tới ngày 1/1/2014, dân số Nhật Bản chỉ hơn mức 128 triệu người. Các quan chức của Bộ Nội vụ Nhật Bản thống kê số liệu này dựa vào đăng kí thường trú của người dân. Theo đó, dân số ở mức 128,43 triệu người, giảm 0,24 triệu so với năm trước. Tổng dân số tính cả 2 triệu người nước ngoài đăng kí cư trú với thị thực từ 3 tháng trở lên. Số công dân Nhật Bản giảm năm thứ 5 liên tiếp, còn 126,43 triệu người. Dân số giảm tại 1.440 đô thị, tức là chiếm 82% trong số 1.748 thành phố, thị trấn và làng xã ở Nhật. Trẻ em từ 14 tuổi trở xuống chiếm 13,04% tổng dân số, mức thấp kỉ lục. Những người trong độ tuổi lao động, tức là từ 15 tới 64 tuổi, chiếm khoảng 61,98%. Đây cũng là số liệu thấp kỉ lục kể từ khi bộ này bắt đầu thống kê số liệu vào năm 1994. Dân số có tuổi từ 65 trở lên chiếm 24,98% tổng dân số, là tỉ lệ cao kỉ lục từ trước tới nay [1]. Chỉ tính riêng thủ đô Tokyo, những số liệu thống kê cho thấy tại thời điểm ngày 1/1/2014, dân số phụ thuộc (những người thuộc độ tuổi 0-14 và trên 65) là 434.3048 người. Trong khi đó, số người trong độ tuổi lao động (từ 15-64) là 8.464.583 người [2].

Trước thực tế già hóa dân số, tại cuộc họp đầu năm ngày 24/1/2014, các bộ trưởng trong Nội các có liên quan đã thảo luận về khả năng thiếu lao động trong lĩnh vực xây dựng. Nguyên nhân thiếu lao động xây dựng có liên quan đến công tác tái thiết sau thảm họa 2011 và việc chuẩn bị cho Tokyo đăng cai Olympics mùa Hè năm 2020. Chánh văn phòng Nội các Nhật Bản Suga Yoshihide nói việc nhận thêm nhiều người lao động nước ngoài có thể đảm nhận công việc xây dựng ngay lập tức là rất quan trọng. Bộ trưởng Đất đai, Giao thông và Cơ sở hạ tầng Ota Akihiro nói số công nhân xây dựng đã giảm 1,2 triệu người so với thời kỳ đỉnh điểm, do xã hội già hóa và tỷ lệ sinh thấp [3].

Liên quan đến vấn đề này, Đảng Komei của liên minh cầm quyền đã đề xuất một biện pháp giới hạn về thời gian để giải quyết tình trạng thiếu lao động. Theo kế hoạch của đảng này, nếu người nước ngoài muốn làm việc ở Nhật Bản sau khi hoàn tất quá trình thực tập 3 năm trong lĩnh vực xây dựng, theo chương trình thực tập sinh của Nhật Bản dành cho người nước ngoài, thì họ sẽ được phép ở lại Nhật Bản thêm 2 năm nữa. Chương trình thực tập sinh này chủ yếu dành cho lao động tại các nước đang phát triển. Hiện những thực tập sinh nước ngoài tại Nhật Bản, sau khi hoàn thành chương trình thực tập và trở về nước, không được phép trở lại Nhật Bản. Đảng Komei cho rằng những đối tượng như vậy nên được cho phép trở lại Nhật Bản và lưu lại đến 3 năm.

 

Quan điểm thận trọng trong việc tiếp nhận người lao động nước ngoài

Nếu tiếp nhận người lao động nước ngoài, Nhật Bản sẽ phụ thuộc vào quốc gia phái cử lao động. Có ý kiến cho rằng cắt giảm thời hạn lưu trú là một giải pháp, song dù cắt giảm thế nào họ vẫn phải sinh sống tại Nhật Bản. Khi những người di cư này có tuổi sẽ nảy sinh vấn đề chăm sóc sức khỏe. Chắc chắn những người di cư này sẽ có nhu cầu thăng tiến trong xã hội. Xã hội Nhật Bản là xã hội không có giai cấp nên không thể bắt nhóm người di cư chỉ làm một loại hình công việc. Khi đó, xã hội Nhật Bản sẽ ứng xử như thế nào. Tại nhiều nước, dù tiếp nhận người nước ngoài nhưng cách ứng xử không theo tình cảm. Ví dụ như ở Singapore, nếu người giúp việc có thai sẽ bị bắt về nước ngay lập tức. Ở Nhật Bản không thể làm như vậy. Nhật Bản là dân tộc sống có nội tâm sâu sắc, nên chấp nhận dân tộc khác, song hoàn toàn tiếp nhận người nước ngoài là câu chuyện khác.

Trong chế độ thực tập sinh cho người nước ngoài, đến nay đã chấp nhận việc người lao động quay trở lại, kéo dài thời hạn. Về loại hình công việc, không chỉ trong ngành xây dựng mà cả ngành đóng tàu. Mặc dù là để giải quyết việc thiếu hụt nguồn nhân lực, song nếu chấp nhận người lao động nước ngoài cần tính đến vấn đề người Nhật Bản có thể gây ra. Hiện nay, xảy ra những vấn đề như các công ty không có tâm, cố tình trả lương thấp cho giờ làm thêm, quấy rối tình dục. Để hợp tác với các nước đang phát triển, cần giảm tiếp nhận lao động giản đơn người Trung Quốc. Hiện nay, số lượng người Trung Quốc được dạy dỗ tư tưởng chống Nhật đang tăng lên. Không có ý phân biệt đối với người Trung Quốc, song nên nhận thức rằng Trung Quốc là một quốc gia đặc biệt.

Thời điểm Trung Quốc xảy ra tình trạng vô chính phủ do sự kiện Thiên An Môn, nhiều người Trung Quốc đã từ bỏ đất nước, vượt biên giới các nước Á – Âu di chuyển đến Rumani. Người ta từng chứng kiến cảnh nhiều người ban ngày bán hàng kém chất lượng, ban đêm đánh bạc ở casino. Hiện nay, dường như Trung Quốc thúc đẩy chính sách khuyến khích người dân đi ra nước ngoài sinh sống. Từ sau năm 2000, phần lớn trong số người châu Á ở nhiều nơi trên thế giới là người Trung Quốc. Hệ quả là tại các nước có nhiều người di cư như Canada, Australia, Newzeland, chỉ 10 năm nữa thôi không biết sẽ xảy ra chuyện gì. Ví dụ có những thành phố của Canada, người Trung Quốc chiếm hơn một nửa số dân. Cơ cấu dân số sẽ thay đổi nhanh chóng.

Trước khi thúc đẩy chính sách tiếp nhận người lao động nước ngoài, hãy suy nghĩ về hiện trạng thực tế. Tại thành phố Tokyo, những thông báo về người Trung Quốc phạm tội, bán dâm có rất nhiều. Cùng với đó là rất nhiều chuyện về cách thức lưu trú bất hợp pháp của người Trung Quốc. Không chỉ ở thành phố lớn như Tokyo mà ngay ở những thành phố nhỏ như Okayama cũng có tổ chức bán dâm của người Trung Quốc. Hình thành những khu vực chỉ có người Trung Quốc. Thực tế là cảnh sát cũng khó can thiệp vào những khu vực này và khó phát hiện được sự phạm tội của người Trung Quốc. Chưa giải quyết vấn đề này liệu có thể thúc đẩy được vấn đề người di cư.

Trong tình trạng công việc có nhưng thiếu nguồn nhân lực, không thể sản xuất, có thể bù đắp bằng lực lao động người nước ngoài. Nhưng điều này sẽ dẫn đến hiện tượng những ngành liên quan đến sự sống còn của người dân Nhật Bản như xây dựng, đóng tàu,… để người nước ngoài làm, người dân Nhật không làm. Những nơi quan trọng phụ thuộc vào người nước ngoài, đặc biệt là người Trung quốc liệu có ổn không. Khả năng lộ những bí quyết, bí mật của quốc gia là hoàn toàn có thể xảy ra. Sự thành công của Nhật Bản trong thời kỳ tăng trưởng cao là nhờ đầu tư nhân lực và thiết bị. Chính sách mở rộng tiếp nhận người lao động nước ngoài hiện nay có thể phá vỡ những thành quả của Nhật Bản.

Những ý kiến trên không có nghĩa là phủ định việc tiếp nhận người nước ngoài, song không thể tiếp nhận mà không có thảo luận với người dân. Nhật Bản vẫn còn nhiều nguồn nhân lực lao động có thể khai thác. Cần xem xét đến những nhóm có thể tận dụng được như phụ nữ, người già, thanh niên. Liệu có đúng đắn nếu chỉ suy nghĩ một cách đơn thuần về vấn đề trước mắt là thiếu hụt lao động. Với tỉ lệ sinh thấp như hiện nay, hàng năm tiếp nhận 200.000 người nước ngoài thì 100 năm sau cứ 3 người dân có 1 người là người nước ngoài. Cần phải xem xét cẩn trọng về thực tế này [4].

 

Phan Cao Nhật Anh, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á.

 

[1] Website NHK ngày 25/6/2014,  http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/

[2] 働き手の人口割合初めて二人下回る東京都、http://sankei.jp.msn.com/life/news/140321/trd14032109580010-n1.htm

[3] Website NHK ngày 24/1/2014,  http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/

[4] 移民対策は「中国人受け入れ」と同義 これだけある問題点 正論―トークライブで論客が討論

http://sankei.jp.msn.com/politics/news/140707/plc14070711300003-n1.htm

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn