GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

MỤC TIÊU DÂN SỐ NHẬT BẢN – “50 NĂM SAU DUY TRÌ DÂN SỐ Ở MỨC 100 TRIỆU NGƯỜI”

Đăng ngày: 9-10-2014, 00:14

Chính phủ Nhật Bản trong “Phương châm cơ bản cải cách cơ cấu và hoạt động của nền kinh tế tài chính” đã đưa ra mục tiêu quốc gia “50 năm sau (tức những năm 60 của thế kỷ này) sẽ duy trì dân số ở mức 100 triệu người”. Phương châm cơ bản để đạt mục tiêu này là sẽ bằng cách nâng cao tỷ lệ sinh, không áp dụng phương thức mở rộng chính sách di dân.

Dân số ngày càng giảm, già hóa dân số không thể tránh khỏi

Ủy ban “Lựa chọn tương lai” tại Hội nghị tư vấn tài chính kinh tế của chính phủ Nhật Bản (Chủ tịch hội là Chủ tịch phòng thương mại Nhật Bản Akio Mimura) đã đưa ra Báo cáo giữa kì trung tuần tháng 5, trong đó nhấn mạnh rằng: “dân số Nhật Bản tiếp tục giảm trong 50 năm tới là một thực tế”, “căn cứ vào tỉ lệ sinh hiện nay, 50 năm tới tổng dân số Nhật Bản giảm còn 87 triệu người, quy mô dân số chỉ còn bằng 2/3 hiện nay. Hơn nữa, tỉ lệ số người già trên 65 tuổi đạt 40%, Nhật Bản sẽ đối mặt với tình trạng già hóa dân số mà từ trước đến nay chưa từng có”.

Cho dù tính tới năm 2030, tỉ lệ sinh Nhật Bản (tổng số trẻ em được sinh ra từ một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ) tăng lên 2,07, điều này duy trì mức tăng trưởng lâu dài dân số, thì 50 năm tới dân số Nhật Bản vẫn giảm xuống khoảng 100 triệu người. Dự đoán ít nhất sau 80 năm nữa (những năm 90 của thế kỉ này), xu thế dân số giảm mới có thể được kiềm soát.

Đặc biệt đáng chú ý là nếu vấn đề việc làm của phụ nữ và người già không được cải thiện và giải quyết ở mức cơ bản, trong trường hợp xấu nhất, dân số trong độ tuổi lao động năm 2013 là 65,77 triệu người (tất cả dân số có việc làm và thất nghiệp, có năng lực lao động trên 15 tuổi) tới năm 2060 sẽ giảm còn 37,95 triệu người, giảm 42% so với hiện nay. Có dự báo rằng, nếu tỉ lệ sinh năm 2030 tăng lên 2,07, và phụ nữ Nhật Bản có thể tham gia làm việc giống phụ nữ Thụy Điển, tuổi nghỉ hưu so với hiện nay (60 tuổi) kéo dài thêm 5 năm, năm 2060 dân số trong độ tuổi lao động của Nhật Bản vẫn giảm còn khoảng 55 triệu người.

“Gánh nặng dân số” và “Quy mô kinh tế thu nhỏ”

Nếu vẫn tiếp tục để tốc độ gia tăng dân số giảm mà không quản lý, không quan tâm tới tỉ lệ sinh đang giảm không ngừng, nền kinh tế Nhật Bản sẽ khó có thể duy trì tăng trưởng. Quy mô kinh tế nhất định sẽ bị thu hẹp, dễ chịu ảnh hưởng của kinh tế nước ngoài và thị trường tài chính quốc tế, như vậy sợ rằng sẽ gây xáo trộn nền kinh tế trong thời gian ngắn.

Ngoài ra, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động giảm, khi số người phải nuôi dưỡng nhiều hơn số người lao động, “gánh nặng dân số” sẽ trở thành gói nợ của kinh tế. Hơn nữa, dân số giảm khiến quy mô kinh tế của thị trường trong nước thu hẹp, dẫn tới thu hút đầu tư yếu, khó có thể sáng tạo thông qua nhân viên. Quy mô kinh tế một khi đã thu hẹp, sẽ có xu hướng rơi vào tình trạng “xoắn ốc” dần dần thu nhỏ lại.

Bên cạnh đó, kinh tế địa phương cũng chịu ảnh hưởng nghiêm trọng. Căn cứ vào tình trạng dân số di cư từ địa phương lên thành phố lớn, năm 2020 dân số nữ giới từ 20-39 tuổi của 896 thành phố, thị trấn (chiếm 49,8%) so với năm 2010 giảm trên 50%, hơn nữa số thành phố thị trấn có tổng dân số năm 2040 không tới 1 triệu người sẽ đạt 523 thành phố (chiếm 29,1%), người ta lo ngại những địa phương này sẽ “mất đi khả năng”, già hóa dân số tại Tokyo và các đô thị xung quanh không thể tránh khỏi. Nhật Bản đang phải đối mặt với nguy cơ bị diệt vong, ngăn chặn “dân số giảm và già hóa dân số” mới là con đường duy nhất để cải thiện tình hình.

Hướng tới phân phối tài nguyên “trẻ em” để cải thiện tình hình

Báo cáo trung hạn này kêu gọi Nhật Bản phải đẩy nhanh cải cách chế độ, chính sách và thay đổi ý thức người dân, nhấn mạnh “cần phải thay đổi môi trường, khiến thế hệ trẻ và thế hệ mai sau có thể kết hôn và sinh con cái”; cần phải thay đổi tương lai của Nhật Bản, chỉ có lựa chọn này mới là “lựa chọn của tương lai”. Báo cáo còn chỉ ra mục tiêu quốc gia “100 triệu dân”, tức là “50 năm sau có quy mô 100 triệu dân số, phấn đấu duy trì cơ cấu dân số ổn định trong tương lai”.

Ngài Akio Mimura phát biểu với báo giới nhấn mạnh rằng, “So sánh phân phối tài nguyên an sinh xã hội Nhật Bản và nước ngoài, rõ ràng hướng về người già. Sau này cần phải tăng chi trả cho người trẻ, thúc đẩy hiệu quả chính sách già hóa về hưu 70 tuổi, và cần phải thực hiện chính sách mạnh bạo hơn”. Ủy ban cần dựa vào hướng đi này và trong cuối năm nay nộp báo cáo tổng kết cuối cùng.

Báo cáo chỉ ra rằng, một bước tiến của thay đổi tương lai là thúc đẩy chính sách kinh tế, thoát khỏi cục diện khó khăn kinh tế dài hạn, sớm đưa nền kinh tế đi vào quỹ đạo ổn định, điểm này là vô cùng quan trọng. Đặc biệt là nửa sau những năm 20 của thế kỉ này, một lượng trẻ em mới sinh sẽ vượt qua những người 75 tuổi, dân số già hóa chiếm trên 3 phần, hơn nữa dân số giảm nhanh chóng, bởi vậy báo cáo còn cho rằng, Nhật Bản cần lấy việc tổ chức Olympic Tokyo và Paralympic Tokyo vào năm 2020 làm mục tiêu, áp dụng các biện pháp hiệu quả, ngăn chặn xu thế “thiếu người trẻ và  thừa người già” ngày càng nghiêm trọng.

Năm biện pháp cải cách

Báo cáo chỉ ra năm biện pháp cải cách và thay đổi trọng điểm:

Hoàn thiện môi trường giáo dục trẻ em

Số con của một cặp vợ chồng lý tưởng là 2,4 con, nhưng thực tế hiện này chỉ có 1,7 con/1 cặp vợ chồng. Nhật Bản cần phải đẩy mạnh chính sách sinh con thứ ba, cung cấp môi trường lý tưởng để sinh con, đưa mức sinh trở lại mức 2,0. Nâng cao hỗ trợ sinh đẻ, không chỉ cho thế hệ sau, mà là do thế hệ này chịu trách nhiệm. Đối sách cho việc thiếu trẻ em cần có sự hỗ trợ từ trước, mở rộng quy mô, “chính sách phúc lợi trẻ em” cần nghiên cứu lại, từ góc độ “đầu tư tương lai” từng bước hiện thực hóa và hoàn thiện.

Mở rộng cửa với kinh tế thế giới, “tư duy sáng tạo giá trị mới”, thực hiện mục tiêu không ngừng phát triển

Phát triển kinh tế là điều kiện bắt buộc của duy trì mức sống quốc dân. Mở rộng chế độ cải cách linh hoạt, có thể kêu gọi nhân dân không ngừng sáng tạo, dẫn tới cải cách cơ cấu, thúc đẩy “trẻ hóa” doanh nghiệp. Xây dựng quốc gia mở cửa, quy tụ nhân tài, vật tư, thông tin, nguồn vốn của thế giới, để tăng trưởng và phát triển kinh tế. Ngoài ra, nhân dân Nhật Bản còn tích cực thảo luận và thu hút nhân tài cao cấp của nước ngoài.

Xây dựng một xã hội mà mọi người tự phát huy năng lực bản thân

Thay đổi phương thức tìm việc của nam nữ, xây dựng môi trường tốt, xóa bỏ hiện tượng phụ nữ sau 25 đến 30 tuổi mới đi tìm việc. Với người 70 tuổi về hưu, thay đổi nhận thức về “dân số trong độ tuổi lao động mới”, từ đó khiến những người cao tuổi có sức khỏe vẫn có thể đáp ứng được yêu cầu của xã hội năng động.

Thúc đẩy chiến lược khu vực để phát huy được điểm mạnh của địa phương

Để xóa bỏ tư duy mới thường thấy, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên (nông nghiệp, du lịch…) của địa phương, thì cần phải tạo ra cơ hội việc làm. Xây dựng khu trung tâm, thực hiện quản lí và phát huy sức sống khu kinh tế. Trụ sở doanh nghiệp có sức cạnh tranh lớn, hình thành thành phố cứ điểm chiến lược, từ đó kiểm soát số dân di cư lên Tokyo.

Đảm bảo môi trường tốt để phát triển và vươn ra thế giới

Kế thừa và phát triển truyền thống văn hóa, ý thức thẩm mỹ và giá trị quan trong lịch sử và đất nước con người Nhật Bản, xây dựng thương hiệu Nhật Bản. Thông qua sự cống hiến với cộng đồng quốc tế, tham gia xây dựng quy tắc quốc tế, duy trì vị trí của Nhật Bản trên thế giới, đưa thông tin về Nhật Bản tới các nước khác trên thế giới.

 

Người dịch: Phan Diễm Huyền, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

Nguồn: http://www.nippon.com/cn/features/h00057/

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn