GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

RÈN LUYỆN CON CÁI Ở NHẬT BẢN

Đăng ngày: 21-10-2014, 13:50

1. Ý nghĩa và mục đích của việc rèn luyện trẻ em

Rèn luyện đóng vai trò quan trọng xuyên suốt quá trình phát triển của trẻ em .Tuy nhiên, đối với những đứa trẻ thì các hình thức rèn luyện đơn giản là sức ép khiến chúng lớn lên.

Một số bậc phụ huynh kỳ vọng quá nhiều ở 1 đứa trẻ. Họ mong muốn con em mình học tập, thích nghi với các quy luật của xã hội mà không có những hành động đáng xấu hổ hay gây rắc rối cho người khác. Cũng là lẽ tự nhiên khi cha mẹ mong muốn con cái họ hòa nhập tốt với xã hội. Tuy nhiên, việc cha mẹ quan tâm quá nhiều tới những điều người khác nghĩ sẽ ảnh hưởng tới cách họ rèn luyện con cái, hoặc là quá nghiêm khắc, hoặc quá dễ dãi. Bởi vậy, ý nghĩa và mục đích của việc rèn luyện nên xuất phát từ quan điểm phát triển trẻ em.

Khi tìm kiếm từ “shitsuke” – có nghĩa là rèn luyện trong từ điển Koujien, bạn có thể tìm thấy bốn định nghĩa: (1) Thiết lập một thứ gì cố định hoặc cho tương lai. (2) Gieo hạt theo một đường thẳng. (3) Phát triển cách ứng xử tốt và lịch sự bằng cách hướng dẫn và thực hành. (4) Lược (may vải bằng mũi chỉ dài để tạm giữ các mảnh vải lại với nhau). Như vậy, đặc điểm chung của tất cả những định nghĩa trên đều là “chuẩn bị trước để ngăn một thứ gì đó khỏi bị cong vênh”.

Có lẽ hầu hết người Nhật Bản muốn ám chỉ định nghĩa thứ ba khi họ đề cập tới “shisuke”. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả bài viết thì từ này có thể được bắt nguồn từ định nghĩa thứ tư - nghĩa là “Những mũi chỉ dùng để tạm giữ các mảnh vải sẽ được gỡ bỏ sau khi việc khâu vá được hoàn tất”. Nói cách khác, những thứ không cần thiết dần dần cần phải được gỡ bỏ.

Việc rèn luyện trẻ em cũng vậy. Cha mẹ kèm cặp, hướng dẫn con cái họ, giúp con cái họ hình thành những thói quen và cả những hành vi. Đây là điều hữu ích, tuy nhiên điều này sẽ dần trở nên ít cần thiết hơn khi những đứa trẻ có khả năng điều khiển hành vi cũng như thói quen của chính chúng.

Mục đích của việc rèn luyện con cái nên được xem là sự hỗ trợ của người lớn nhằm khuyến khích trẻ em phát triển từ giai đoạn "dị trị” - tuân theo những nguyên tắc của người khác hơn là của bản thân, cho đến giai đoạn “tự trị” - biết suy nghĩ và tự đưa ra quyết định. Để quá trình phát triển này diễn ra, mỗi gia đình lại có những phương pháp riêng. Tuy nhiên, đặt lên hàng đầu là việc dạy trẻ cách ứng xử xã hội thông thường, tránh gây ra rắc rối cho người khác; phát triển lòng bao dung và tính nhân văn; giáo dục trẻ không được coi thường, khinh miệt hay chỉ trích người khác.

Mục đích của việc rèn luyện sẽ thay đổi theo lứa tuổi của trẻ cũng như những tiêu chuẩn của các bậc phụ huynh và gia đình. Dù sao đi nữa, điều quan trọng nhất chính là cha mẹ luôn cố gắng khuyến khích con em mình tập cách suy nghĩ độc lập, đưa ra quyết định và hành động khi chúng lớn lên. Cuối cùng, cha mẹ  cần giảm dần đi sự hỗ trợ của họ từng chút một cho tới khi con cái có thể tự đứng vững một mình.

Nhiều bậc cha mẹ cho rằng điều quan trọng nhất mà trẻ em cần học là làm thế nào để thích nghi được với các quy tắc xã hội và ứng xử mà không bị chỉ trích bởi những người xung quanh. Tuy nhiên đây chỉ là cái nhìn từ phía những người trưởng thành. Cha mẹ không nên quá lo lắng về việc liệu con cái có trở thành một người thích nghi được với xã hội hay không.

2. Rèn luyện một cách tích cực

Sự hỗ trợ của cha mẹ trong việc rèn luyện con cái rất quan trọng. Thời thơ ấu, trẻ em cần được mẹ chăm sóc ở mọi khía cạnh. Khoảng 2 tuổi, trẻ bắt đầu hình thành những thói quen thường ngày cùng với sự giúp đỡ của mẹ, ví dụ như thay quần áo, ăn, tự đi vệ sinh và đánh răng… Trẻ con ở độ tuổi này thường thích tự làm những việc kể trên, và trong những trường hợp như vậy, nên khuyến khích chúng. Khi công việc hoàn tất, hãy dành lời khen cho sự cố gắng của bọn trẻ, hãy nói với chúng rằng “Con đã tự làm được tất cả, thật tuyệt vời”. Không nên mắng mỏ con cái ngay cả khi chúng làm không tốt, hãy bỏ qua sự buồn bã cũng như kiềm chế cơn giận. Không nên nói rằng “Thấy không, con quá bé để có thể làm những việc này”. Thay vào đó, hãy nằm lấy tay bọn trẻ và khuyến khích chúng vươn lên.

Một số đứa trẻ gặp khó khăn trong việc thắt nút, kéo phéc-mơ-tuya áo khoác, và điều này sẽ tiếp diễn cho tới khi chúng phát triển đủ để kiểm soát cử động tốt. Cha mẹ nên liên tục giúp đỡ và khuyến khích chúng, không nên gò ép và hãy luôn chú ý tới tốc độ phát triển của trẻ .

Ở tuổi thứ 3 và thứ tư, trẻ đã thiết lập được những thói quen hàng ngày như thói quen tự ăn uống tại bàn, tự đi vệ sinh, đánh răng và rửa mặt hay ngủ một mình buổi tối. Tất nhiên, đây chỉ là những điểm chung nhất, mỗi đứa trẻ khác nhau có tốc độ phát triển khác nhau, vì thế đừng lo lắng nếu con bạn tụt hậu hơn một chút. Ở giai đoạn này, trẻ đang dần trở nên độc lập khỏi mẹ thông qua các mối quan hệ mới với bạn bè hay những người lớn xung quanh ngoài những thành viên trong gia đình chẳng hạn như người trông trẻ. Giờ đây, bọn trẻ có thể dành cả ngày ở nhà trẻ mà không cần đến mẹ, hay có thể đến chơi nhà bạn một mình. Nhiều đứa trẻ thậm chí có thể giúp mẹ việc nhà, vì thế hãy khuyến khích bọn trẻ làm những việc nhà mà chúng có thể như giúp mẹ chuẩn bị bàn ăn hay đồ ăn nhẹ buổi chiều. Thói quen tham gia vào các hoạt động gia đình như chuẩn bị đồ ăn, dọn dẹp đồ chơi và quần áo trong phòng là những trải nghiệm tốt đối với trẻ.

Khoảng năm tuổi, trẻ có thể chăm sóc em trai hoặc em gái hay chạy một vài việc lặt vặt cho mẹ. Các bà mẹ hẳn rất hài lòng khi chứng kiến con cái họ phát triển tới mức có thể đảm nhiệm những vai trò nhất định trong gia đình. Trẻ em ở độ tuổi này đã có khả năng suy nghĩ và đưa ra quyết định của riêng mình trong từng tình huống nhất định, đồng thời điều chỉnh bản thân với môi trường xung quanh chúng, điều mà trước đó được kiểm soát bởi người lớn. Những đứa trẻ cũng có khả năng hiểu “ngôn ngữ hiển thị” (nghĩa là có thể kiểm soát sự bùng nổ cảm xúc hay có khả năng tác động lên những đứa trẻ khác). Vì vậy ở độ tuổi này, trẻ em trở nên nhạy cảm hơn khi tiếp xúc với bạn bè xung quanh, có khả năng kiềm chế những hành vi ích kỷ và sẵn sàng chia sẻ đồ chơi với bạn bè.

Tóm lại, bố mẹ cần hiểu được mục đích của việc rèn luyện con cái là để hỗ trợ cho sự tự chủ của chúng, dạy chúng cách sống tốt nhất.Trong suốt quá trình trẻ lớn lên và mở rộng thế giới của riêng chúng, cha mẹ không nên áp đặt các tiêu chí và kỳ vọng của mình lên con cái. Rèn luyện một cách độc đoán có thể biến việc rèn luyện trở thành gánh nặng đối với trẻ, làm giảm đi sự phát triển tự nhiên cũng như khả năng suy nghĩ, tự đưa ra quyết định của trẻ. Bởi vậy, cần suy nghĩ cẩn thận về phương pháp rèn luyện sao cho trẻ tự tin và độc lập khi đến tuổi trưởng thành.

3. Rèn luyện trẻ em ở Nhật Bản: nghiên cứu so sánh với Hàn Quốc và Trung Quốc

Liệu có phải sự khác biệt về điều kiện sống của trẻ em ảnh hưởng tới thành tích học tập của chúng hay không?

Trẻ em ở những gia đình khác nhau có những yếu tố khác biệt về thu nhập của cha mẹ, số tiền đầu tư vào giáo dục, phương pháp rèn luyện hay số lượng sách có trong nhà. Có một nghiên cứu so sánh xem điều kiện sống ảnh hưởng như thế nào đến kỹ năng đọc, viết, từ vựng và thành tích học tập ở trường tiểu học của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, đối với trẻ em được khảo sát tại 3 quốc gia, thu nhập hộ gia đình ít ảnh hưởng đến kỹ năng đọc viết của trẻ cho tới khi trẻ 5 tuổi, ngược lại phương pháp giáo dục của cha mẹ và lượng sách trong gia đình lại không ngừng tác động tới sự phát triển về từ vựng của trẻ. Bên cạnh đó, những phương pháp rèn luyện khác nhau cũng ảnh hưởng theo những cách khác nhau, ví dụ như trẻ em ở Nhật và Hàn Quốc được giáo dục theo hình thức “chia sẻ - hoạt động” - tức là cha mẹ gần gũi con cái, cùng dành thời gian chia sẻ và tham gia các hoạt động, có được vốn từ vựng phong phú hơn.

Ngược lại, ở Trung Quốc, trẻ em được giáo dục đan xem giữa “chia sẻ-hoạt động” và “độc tài” – tức là trẻ buộc phải tuân theo những lời chỉ dạy của người lớn, cho thấy vốn từ vựng cao.

Bên cạnh đó, có số liệu kết quả so sánh của một thử nghiệm xóa mù chữ đối với trẻ em trong kỳ học thứ 3 năm đầu tiên của các trường tiểu học Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bài kiểm tra bao gồm kỹ năng đọc hiểu, lý luận của một bài tam luận, sao chép và viết chính tả bằng chữ Hán. Với trẻ em ở Nhật Bản và Hàn Quốc, không thể tìm thấy mối liên hệ giữa kết quả các bài kiểm tra và tình hình tài chính của cha mẹ chúng (ví dụ như thu nhập hộ gia đình, số tiền đầu tư vào giáo dục sớm hay đi học tại các trường dạy thêm). Trái ngược với hoàn cảnh tài chính, các hình thức giáo dục tại gia cũng như các phương pháp rèn luyện tác động đáng kể tới kết quả kiểm tra của các em. Chính xác hơn, trẻ em được giáo dục theo phương pháp “chia sẻ hoạt động” có vốn từ vựng phong phú, có điểm thi cao hơn trong khi những em được giáo dục theo phương pháp “ độc tài” lại có vốn từ vụng nghèo nàn với điểm thi thấp hơn.

Điều này cho thấy tầm quan trọng trong phương pháp giáo dục, đặc biệt là ở Nhật Bản và Hàn Quốc. Bằng cách cẩn thận lựa chọn 1 chế độ rèn luyện, cha mẹ có thể giảm thiểu hay khắc phục những tác động về mặt tài chính (thu nhập hộ gia đình vào giáo dục) đối với sự phát triển của con em mình. Nói cách khác, các bà mẹ không thể thay đổi nền giáo dục hay thu nhập của các ông chồng, nhưng họ có thể lựa chọn cách giao tiếp với con cái họ. Quan điểm của họ, cách rèn luyện của họ có thể thay đổi cuộc đời đứa trẻ của họ.

Cha mẹ, những người yêu thích đọc sách và sẵn sang đọc truyện cho con mình trong suốt thời thơ ấu của chúng, cùng chúng trò chuyện, tạo sự kết nối hạnh phúc trong gia đình, bất kể thu nhập hay số tiền họ đầu tư và giáo dục là bao nhiêu, đửa trẻ vẫn phát triển đầy đủ kỹ năng từ vựng cũng như có tư duy độc lập. Đặc biệt, thái độ của cha mẹ đối với con cái, cách họ cư xử với con cái như một người trưởng thành sẽ tăng tính tự chủ của trẻ.

Từ tất cả những lý do trên , có 3 điều mà các bậc phụ huynh - những người đang nuôi dạy con cái cần chú ý. Thứ nhất, học chữ không chỉ đơn thuần là đọc và viết mà xa hơn nữa, nó còn là tính linh hoạt trong vệc sử dụng ngôn ngữ hiệu quả. Bởi vậy, việc giúp trẻ phát triển tư duy sáng tạo trong thời thơ ấu là rất cần thiết. Thứ hai, từ vựng là một phần quan trọng để có được nền tảng học tập xuất sắc, và điều này được nuôi dưỡng thông qua phương pháp giáo dục “chia sẻ - hoạt động” với sự gần gũi giữa cha mẹ và con cái. Cuối cùng, sự tác động về chênh lệch kinh tế đối với giáo dục có thể được giảm thiểu tùy theo phương pháp rèn luyện của cha mẹ. Điều quan trọng chính là các bậc phụ huynh nên tôn trọng tính cách cũng như quyền tự chủ của con cái như một người trưởng thành, hãy quan tâm đến sở thích và suy nghĩ của con, luôn chia sẻ và tạo nên một bầu không khí gần gũi trong gia đình.

 

Lược dịch: Phạm Thu Thủy, Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản, Viện Đông Bắc Á

Nguồn: http://www.childresearch.net/papers/parenting/2012_03.html

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn