GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

VẤN ĐỀ HUY ĐỘNG SỨC LAO ĐỘNG CỦA PHỤ NỮ Ở NHẬT BẢN HIỆN NAY

Đăng ngày: 1-11-2014, 20:03

Trong bối cảnh giảm dân số hiện nay, một trong những cách để đảm bảo tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản là huy động được sức lao động của phụ nữ. Cách thức này sẽ đem lại hiệu quả tích cực qua hai khía cạnh dưới đây.

Thứ nhất là cung cấp lực lượng lao động. Thực tế, một lực lượng lớn lao động tiềm ẩn chưa khai thác hết là lượng phụ nữ mong muốn làm việc nhưng không đi làm. Nếu huy động được lực lượng này tham gia vào thị trường lao động sẽ làm giảm nỗi lo thiếu hụt nguồn lực lao động hiện nay, đảm bảo duy trì mức độ tăng trưởng.

Thứ hai là gia tăng sức sản xuất và chất lượng lao động. Hiện nay, phụ nữ đảm nhiệm các chức vụ quản lý, hay các vị trí trong hội đồng quản trị bắt đầu gia tăng. Điều này làm gia tăng sức sản xuất trung và dài hạn, đồng thời đa dạng hóa nguồn quản lý của các công ty.

Theo báo của tổ chức OECD công bố trong tháng 9 vừa qua, tỉ lệ làm việc của nữ giới có bằng cấp từ đại học trở lên là 69%, đứng thứ 31 trong số 34 nước thành viên. Trong khi đó tỉ lệ này ở nam giới là 92% và đứng thứ 2. Báo cáo này đã chỉ ra vấn đề của Nhật Bản hiện nay là chưa tận dụng hết lực lượng nữ giới có năng lực [1].

Không phải bây giờ mà từ hơn 40 năm trước, tổng thống Mỹ Nicxon, sau khi thôi chức vụ đã viết trong các cuốn sách của ông về điều này. Kinh tế Nhật Bản tăng trưởng nhanh chóng song có những khác biệt sâu sắc trong hai nền kinh tế Nhật – Mỹ. Nhật Bản có điểm yếu là phụ nữ chiếm 40% lực lượng lao động của Nhật Bản song hầu như chưa sử dụng hết năng lực của nhóm này. Nếu giải phóng năng lực và tài năng của phụ nữ Nhật Bản, kinh tế Nhật Bản sẽ phát triển hơn nữa [2].

Chính vì nguyên nhân chủ yếu này, Nhật Bản vẫn bị coi là quốc gia có tình trạng bất bình đẳng nam nữ tồi tệ nhất trong các nước công nghiệp lớn. Theo kết quả khảo sát do Diễn đàn Kinh tế Thế giới công bố ngày 28/10/2014, các nước Bắc Âu là những nước có tình trạng bất bình đẳng giới ít nhất. Tổ chức này so sánh số liệu về kinh tế, giáo dục, chính trị và chăm sóc y tế của các nước, để đánh giá tình trạng bất bình đẳng giới và Nhật Bản đứng thứ 104 trong 142 nước có tên trong cuộc khảo sát này [3].

Để có thể phát huy được năng lực vẫn còn tiềm tàng trong xã hội của phụ nữ Nhật Bản, các chuyên gia cho rằng vấn đề cần khắc phục là cách làm việc chưa có sự hợp lý và tình trạng thiếu hụt nhà trẻ tại Nhật Bản hiện nay.

Xem lại cách làm việc của Nhật Bản [4]

Tạo dựng một xã hội năng động có thể phát huy hết năng lực của phụ nữ. Chính phủ cần đưa ra những đề án trước quốc hội nhằm thúc đẩy sự năng động của phụ nữ. Trụ cột là các kế hoạch tuyển dụng phụ nữ trong các công ty và các chính sách hỗ trợ nhằm đạt được hiệu quả.

Tại Nhật Bản, hơn 60% phụ nữ phải từ bỏ việc làm khi sinh người con thứ nhất. Thiếu nhà trẻ, thời gian làm việc dài là những cản trở khiến phụ nữ khó có thể vừa làm việc nhà vừa đi làm. Hơn nữa, một khi đã từ bỏ công việc, họ khó có thể trở lại làm việc với tư cách là nhân viên chính thức. Thống kê cho thấy trong số những người đang làm việc, hơn 40% là phụ  nữ, song hơn một nửa là lao động không chính thức, hoặc làm bán thời gian. Cơ hội thăng tiến, tăng lương hay được đào tạo bị hạn chế. Rõ ràng là khi cơ hội làm việc để phát huy năng lực không có sẽ ảnh hưởng xấu đến khát vọng làm việc của phụ nữ Nhật Bản.

Tỉ lệ phụ nữ làm quản lý ở Nhật Bản chiếm khoảng 10%, thấp hơn nhiều so với tỉ lệ 30-40% ở các nước Âu Mỹ. 40% tỉ lệ phụ nữ làm quản lý chưa kết hôn, và 60% chưa có con. Dường như phụ nữ Nhật Bản chỉ được lựa chọn một trong hai hoặc là công việc hoặc là gia đình. Việc không phát huy được nguồn nhân lực có trình độ cao như hiện nay là tổn thất lớn cho xã hội Nhật Bản.

Ngay cả với nam giới, cần thay đổi cách làm việc tại công ty. Xem xét lại nội dung và phân công công việc để giảm thời gian lao động dài như hiện nay, tạo điều kiện cho cả nam và nữ cùng đảm nhiệm công việc gia đình, chăm sóc con cái. Mở rộng cách làm việc linh hoạt như có thể làm việc ở nhà, thời gian không bó buộc. Qui định thời gian làm việc hạn định cho nhân viên chính thức.

Sự đa dạng trong hình thức làm việc sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, xác định rõ mục tiêu và phạm vi công việc. Cần hệ thống đánh giá nhân sự phản ánh hiệu quả công việc.

Phát huy nguồn nhân lực có kinh nghiệm, có giá trị là không thể thiếu trong việc nâng cao tính sáng tạo, thúc đẩy tăng trưởng của công ty. Những đề án mới cần đi sâu sát các vấn đề của công ty.

Tăng số lượng nhà trẻ [5]

Hiện tượng “Trẻ đợi nhà mẫu giáo” (muốn đi nhà trẻ nhưng không thể do thiếu nhà trẻ) vẫn tồn tại. Theo thống kê của Bộ lao động và phúc lợi Nhật Bản, thời điểm ngày 1 tháng 4 năm 2014, số lượng trẻ chờ nhà mẫu giáo khoảng 21000 trẻ. Con số này dù đã giảm khoảng 5000 người so với thời điểm cao nhất vào năm 2010 nhưng vẫn ở mức cao.

Tình trạng người mẹ, người chăm sóc phải kéo dài thời gian nghỉ việc, hay từ bỏ hẳn công việc vẫn tiếp tục diễn ra. Để hỗ trợ người phụ nữ có thể đi làm cũng như đảm bảo sự phát triển mạnh khỏe của trẻ cần phải đảm bảo dịch vụ chăm sóc trẻ thật tốt.

Số lượng phụ nữ mong muốn đi làm hàng năm vẫn tăng lên. Chính phủ xác định chủ trương đến năm 2017, chuẩn bị dịch vụ chăm sóc đáp ứng đủ 40.000 trẻ, xóa bỏ tình trạng trẻ chờ nhà mẫu giáo. Năm 2014 đã đáp ứng cho khoảng 190.000 trẻ, đạt được nửa mục tiêu đề ra.

Điều quan trọng là đảm bảo nguồn nhân lực cho nhà trẻ. Giáo viên nuôi dạy trẻ tập trung nhiều ở khu vực đô thị nên việc tuyển dụng khó khăn, không thể mở rộng dịch vụ chăm sóc trẻ như theo kế hoạch. Dự đoán đến cuối năn 2017 thiếu khoảng 74000 giáo viên chăm sóc trẻ.

Thực tế, vẫn có lực lượng giáo viên chăm sóc trẻ tiềm ẩn, khoảng hơn 600.000 người, là những người có bằng cấp chăm sóc trẻ nhưng không đi làm. Trách nhiệm nặng nề, chế độ đãi ngộ không tương xứng là những rào cản đối với công việc nuôi dạy trẻ ở Nhật Bản hiện nay. Nguồn tài chính hạn chế cũng là nguyên nhân khiến phải nỗ lực mới có thể cải thiện được chế độ đãi ngộ. Giảm thời gian làm việc, mở rộng cơ chế làm việc thuận tiện thực sự là cần thiết.

Từ năm 2015, để đảm bảo nguồn nhân lực, nhiều nơi dự định huy động những bà nội trợ có kinh nghiệm nuôi con làm nhân viên hỗ trợ chăm sóc trẻ tại những cơ sở có qui mô nhỏ. Đồng thời tạo cơ chế hỗ trợ nghiệp vụ, nâng cao chuyên môn chăm nuôi dạy trẻ.

Có thể thấy rằng, công việc chăm lo gia đình và nuôi dưỡng con cái là nguyên nhân cản trở phụ nữ tham gia lao động. Bởi vậy, cùng với việc kêu gọi chiến lược tái phục hồi Nhật Bản, việc mở rộng việc chăm sóc trẻ là không thể thiếu. Mở rộng dịch vụ chăm sóc trẻ là sự đầu tư cho tương lai và cũng là bước chuẩn bị cơ bản cho giáo dục tiểu học cần phải đẩy mạnh.

 

Phan Cao Nhật Anh, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á


[1]女性活躍法案 働き方の見直しにつなげたい、

http://www.yomiuri.co.jp/editorial/20140920-OYT1T50115.html

[2]女性の力で経済成長なるか、

http://www.nhk.or.jp/kaisetsu-blog/700/191370.html

[3]Website NHK ngày 28/10/2014

http://www3.nhk.or.jp/nhkworld/

[4]女性活躍法案 働き方の見直しにつなげたい、

http://www.yomiuri.co.jp/editorial/20140920-OYT1T50115.html

[5] 女性の活躍へ保育拡充急げ、http://www.nikkei.com/article/DGXDZO77330700Q4A920C1EA1000/

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn