GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

HỆ THỐNG HẠN NGẠCH VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở NHẬT BẢN (phần 1)

Đăng ngày: 30-05-2015, 23:42

Nhật Bản là một trong sáu quốc gia ở Đông Á áp dụng “hệ thống hạn ngạch” việc làm cho người khuyết tật (5 quốc gia châu Á khác cũng áp dụng hệ thống hạn ngạch tương tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Mông Cổ, Sirlanka và Thái Lan). Nhật Bản là quốc gia Đông Á đầu tiên giới thiệu một hệ thống cơ chế - hạn ngạch việc làm cho người khuyết tật trong thị trường lao động mở. Thời gian gần đây, ba quốc gia Đông Á khác là Hàn Quốc, Thái Lan, và Philippin cũng đã áp dụng hệ thống hạn ngạch tương tự.

Từ những năm 1960, chính phủ Nhật Bản đã nỗ lực nhằm đảm bảo cho người khuyết tật không bị từ chối cơ hội việc làm. Các chính sách của chính phủ liên quan tới việc làm cho người khuyết tật có thể chia làm 3 giai đoạn sau:

1. Giai đoạn 1 (1960-1975): nỗ lực thúc đẩy việc làm cho người khuyết tật cơ thể.

2. Giai đoạn 2 (1976-1986): giới thiệu hệ thống thuế khi sử dụng lao động khuyết tật.

3. Giai đoạn 3 (1987- hiện tại): nỗ lực tăng cường việc làm cho cả người khuyết tật cơ thể và người khuyết tật trí tuệ.

Trong giai đoạn 1, năm 1960, chính phủ Nhật ban hành “Luật Thúc đẩy Việc làm cho Người khuyết tật cơ thể” (Physically Disabled Persons Employment Promotion Law). Theo luật này, chính phủ thúc đẩy việc làm cho người khuyết tật cơ thể qua bốn cách thức: 1) hệ thống hạn ngạch, 2) phương án điều chỉnh việc làm tại chỗ, 3) hệ thống hỗ trợ tài chính và 4) hướng dẫn nghề nghiệp và sắp xếp việc làm (Matsui, 1998).

Trong giai đoạn 2, năm 1976, chính phủ Nhật Bản đã sửa đổi căn bản “Luật Thúc đẩy Việc làm cho Người khuyết tật cơ thể”. Sự khác biệt chủ yếu giữa luật gốc và luật sửa đổi thể hiện ở 2 điểm sau:

1) Theo luật đã sửa đổi, tạo việc làm cho người khuyết tật cơ thể là nghĩa vụ bất buộc đối với mọi người sử dụng lao động;

2) Hệ thống thuế sử dụng lao động khuyết tật được giới thiệu.

Trong giai đoạn 3, chính phủ Nhật Bản bắt đầu tập trung giải quyết vấn đề cung cấp cơ hội việc làm cho người khuyết tật trí tuệ. Để thực hiện mục tiêu trên, một điều luật mới, Luật Thúc đẩy Việc làm (Law for Employment Promotion) cho người khuyết tật được ban hành năm 1987. Luật này tập trung vào tạo việc làm cho người khuyết tật. Nói cách khác, năm 1987 trở thành một cột mốc quan trọng trong quá trình tạo việc làm cho người khuyết tật khi ở Nhật Bản khi chính phủ Nhật Bản bắt đẩu thúc đẩy việc làm cho người khuyết tật trí tuệ. Luật này chủ yếu hướng tới giải quyết 3 vấn đề sau (JEED, 2005):

1. Triển khai các giải pháp hướng dẫn nghề nghiệp, đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật, thúc đẩy đào tạo hướng nghiệp nhằm tăng cường sự độc lập nghề nghiệp cho người khuyết tật.

2. Áp dụng một hệ thống hạn ngạch lao động, theo đó đưa ra các ràng buộc về pháp lý trong tuyển dụng người khuyết tật cơ thể và trí tuệ.

3. Xây dựng hệ thống tài trợ và thuế được nhằm hỗ trợ tài chính, tạo việc làm cho người khuyết tật cơ thể và trí tuệ.

Theo hệ thống hạn ngạch của Nhật Bản, tất cả các nhà tuyển dụng “phải thuê một số lượng tối thiểu lao động khuyết tật cơ thể hoặc trí tuệ”. Số lượng yêu cầu về mặt pháp lý được tính toán theo công thức sau:

Số lao động khuyết tật phải tuân thủ

=

Tổng số lao động thường xuyên

x

Tỷ lệ việc làm quy định

 

Trong đó, tỷ lệ việc làm quy định đối với doanh nghiệp tư nhân sử dụng từ 56 lao đông trở lên là 1,8%. Tỷ lệ trên đối với cơ quan nhà nước trung ương và địa phương (sử dụng từ 48 lao động trở lên) là 2,1% (MHLW, 2005).

 

Tống Thùy Linh, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Dịch từ nguồn: Fumitaka Furuoka, Khairul Hanim Pazim, Beatrice Lim, Khairu Hanim Pazim, Roslinah Mahmud, “Employment situation of person with disabilities: Case studies of US, Japan and Malaysia”, Journal of Arts, Science & Commerce, 4/10/2011.

 

 

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn