GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

HIỆN TƯỢNG TÂM LÝ BẤT ỔN ĐỐI VỚI HÔN NHÂN CỦA PHỤ NỮ NHẬT BẢN HIỆN ĐẠI

Đăng ngày: 28-08-2015, 17:56

1. Hiện tượng “Tư thu kì”  thập niên 80

Vào năm 1982, cuốn sách có tên gọi “Tư thu kì của nữ giới”  cùa Shigeo Saito (妻たちの思秋期, 斉藤茂男)  đã được đông đảo độc giả quan tâm. Theo Ochiai, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thành công cuốn sách là bởi nội dung của nó đã đề cập đến hiện tượng “Tư thu kì” của nữ giới - đang là một điểm nóng của xã hội Nhật Bản thời điểm đó. “Tư” là tư tưởng, suy nghĩa, “kì” là thời kì còn “Thu” là mùa thu, tượng trưng cho những phụ nữ ở thời kỳ trung niên. Nếu mùa xuân tượng trưng cho tuổi trẻ, nhiệt huyết và đỉnh cao, thì mùa thu lại gợi cho chúng ta nhớ đến quảng thời gian sau này, khi tuổi trẻ đã qua đi nhưng cũng không đến nỗi quá già để ta buông xuôi tất cả. Sau khi kết hôn, phụ nữ trở thành người chuyên tâm chăm lo con cái, gia đình cho chồng yên tâm làm việc. Khi người phụ nữ bước vào tuổi trung niên, là khi những đứa con của họ lớn lên, vào trung học, rồi đại học, chúng dần tự lập hơn, không cần đến bàn tay chăm sóc người mẹ. Không có công việc, con cái không cần đến họ chăm sóc, và dần họ trở nên hoang mang, cảm giác bất an xuất hiện, họ không biết mình đang sống vì ai? vì điều gì? Đó chính là hiện tượng “Tư thu kì” điển hình của một số đông phụ nữ Nhật Bản ở thời kỳ này. Trong cuốn sách này cũng đề cập đến một vấn đề xã hội của lứa tuổi này, đó là “Phụ nữ nghiện rượu”. Vì quá rảnh rỗi, bị chìm trong cảm giác bất an, không biết mình nên làm gì? Và trong những lúc như thế, họ tìm đến rượu, cuối cùng không thể dừng lại được và trở thành một chứng bệnh khó chữa. Cuộc sống của họ khi ấy chỉ có rượu, không quan tâm chồng con, kéo theo đó là hàng loạt các vấn đề như vợ chồng cãi nhau, bạo lực gia đình hay thậm chí là ly hôn, con cái bơ vơ. Phải chăng, họ đang bất mãn vì một điều gì đó? Sự bất mãn này chính là phản ứng đối với thực tại không thể thoát ra khỏi cuộc sống nhàm chán của một bà nội trợ. Họ muốn tim giá trị sống cho bản thân, tìm đến con người đúng nghĩa của họ nhưng lúc này, họ đã không còn trẻ, nên xã hội không dễ dàng cho họ tái gia nhập. Hoặc dù có được xã hội chấp nhận thì họ cũng không thể bỏ qua áp lực từ phía gia đình, người thân để thực hiện cái tôi của mình. Chính vì vậy, “Tư thu kì” được dùng như một khái niệm, một danh từ riêng để chỉ hiện tượng phụ nữ tuổi trung niên đã kết hôn ở Nhật Bản thời kỳ này.

Theo các nhà nghiên cứu xã hội học Nhật Bản, có hai nguyên nhân dẫn đến hiện tượng “Tư thu kì”.  Thứ nhất, sự cân bằng giữa công việc và chăm sóc con cái. Thế hệ Dankai Sedai (Baby-boom) đồng loạt kết hôn, làm nội trợ nhưng sau đó lại đồng loạt rời bỏ khỏi vai trò của một bà nội trợ bị bó hẹp trong cuộc sống nhàm chán chỉ có việc  nhà và chăm sóc con cái để tiến tới môt cuộc sống có thể thực hiện cái tôi của họ. Hiện tượng “Tư thu kì” xuất hiện ngay chính từ thế hệ Dankai Sedai. Vậy, thế hệ Hanako sinh ra sau thế hệ Dankai Sedaid đã trải nghiệm về thảm kịch của phụ nữ thế hệ trước, liệu có tiếp tục kết hôn và làm nội trợ? Dù có kết hôn sinh con đi chăng nữa thì thời gian họ chuyên tâm lo việc nhà, chăm sóc con cái cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cuộc đời của họ. Đúng thời điểm đầu năm 80, cụm từ “New family” chỉ gia đình có cả vợ và chồng đi làm xuất hiện với tần suất lớn trên các phương tiện truyền thong giống như một từ ngữ thông dụng. Có nghĩa là, mô hình gia đình phân chia vai trò theo nam nữ dần mất đi, thay vào đó là mô hình cả chồng và vợ đều ra ngoài làm việc. Đối với phụ nữ, khi so sánh với mô hình “gia đình chồng đi làm, vợ ở nhà” thì mô hình kiểu “New family” có nhiều ưu điểm hơn. Dù ít hay nhiều, phụ nữ được thoát ra khỏi vai trò mà xã hội quy định trong một thời gian dài. Nhưng thực tế thì người phụ nữ vẫn chưa thật sự đã thoát khỏi vai trò chăm sóc con cái gia đình và con cái. Với mô hình vợ chồng cùng làm, cuộc sống của phụ nữ đã không còn là một cuộc sống nhàm tẻ với ngày ba bữa cơm, bó buộc trong việc nhà, con cái mà họ còn có không gian riêng thực hiện cái tôi cá nhân với cai trò của một người lao động kiếm tiền ngoài xã hội. Nhưng thực tế thì, mặc dù mô hình gia đình thay đổi nhưng trách nhiệm chăm sóc con cái, gia đình vẫn là phụ nữ gánh vác. Theo kết quả của “Điều tra ý thức công luận về xã hội nam nữ bình quyền”, đối với quan điểm “Người chồng làm việc bên ngoài, người vợ chăm lo gia đình”, từ năm 1992 đến 2009, tỷ lệ số người đồng ý và “Nếu theo hướng nào thì là đồng ý” giảm từ 60,1% xuống 41,6%. Tính riêng nam nữ thì tỷ lệ phản đối quan điểm này cũng đang tăng lên. Hơn nữa, càng thế hệ trẻ thì tỷ lệ đồng ý càng giảm. Điều này có nghĩa là ý thức của mọi người đối với quan niệm xã hội mang tình cố định này đang dần thay đổi, quy phạm xã hội cũng ngày càng nới lỏng hơn. Tuy nhiên, đến thời điểm năm 2009 tỷ lệ người đông ý vẫn chiếm gần một nửa. Điều này có nghĩa là đối với quan điểm cố hữu này, quy phạm xã hội đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn bám chắc trong xã hội như trước đây.

Thứ hai, mặc dù trên phương diện ý thức có thể có sự thay đổi nhưng trên phương diện hành động lại là một vấn đề khác. Tỷ lệ người phản đối quan điểm trên có giảm nhưng trên thực tế, khuynh hương vợ phụ trách việc nhà lại không hề thay đổi. Theo “Điều tra ý thức liên quan đến cuộc sống cá nhân của nam nữ” được Nội các phủ thực hiện năm 2009, giữa vợ và chồng, người đảm nhận việc nhà không hề thay đổi, tức là người vợ. Người chồng chỉ đóng vai trò giúp đỡ hoặc thậm chí là không làm gì. Nhiều nam giới ủng hộ quan  niệm phân chia việc nhà nhưng trên thực tế, số gia đình chia việc nhà cho cả chồng và vợ chỉ dừng lại ở 7 % của cuộc khảo sát. Phải chăng họ không muốn làm việc nhà? Theo quan điểm của người viết, không phải họ không muốn làm mà đúng hơn là họ không có thời gian để làm. Sự phân bổ thời gian giữa công việc và nghỉ ngơi là một yếu tố quan trọng có ảnh hướng đến cuộc sống sinh hoạt của mỗi người. Nếu thời gian dành cho công việc càng nhiều thì thời gian để làm việc nhà và chăm sóc con cái càng giảm. Từ điểm nhìn qua sự phân bổ thời gian, chúng ta có thể thấy rằng thời gian làm việc của người Nhật khá dài so với các nước phát triển khác, chiếm phần lớn số thời gian phân bổ trong một ngày. Ví dụ năm 1970, tổng thời gian làm việc trên năm của người Nhật là 2239 giờ, trong khi Mỹ chỉ là 1895 giờ, Anh là 1866 giờ. Như vậy thời gian làm việc trung bình năm của người Nhật gấp 1.18 lần so với các nước Âu Mỹ. Thời điểm năm 2011, mặc dù tổng thời gian làm việc trên năm của người Nhật đã giảm nhưng vẫn ở mức 1747 giờ, và đứng vị trí thứ hai thế giới sau Mỹ.

Hơn nữa, dựa vào kết quả điều tra của Qũy bảo hiểm nhân thọ số 1 thực hiện trên 420 hộ gia đình có cả vợ và chồng cùng đi làm đang gửi con tại 13 nhà trẻ trên địa bản tỉnh Chiba và thủ đô Tokyo năm 2004, chúng ta sẽ thấy bất ngời với thời gian làm việc của các cặp vợ chồng này. Trung bình người chồng làm việc 11,5 giờ, tính cả 1,9 giờ đi lại để đến nơi làm việc sẽ thành tổng 13,3 giờ. Ở người vợ, con số này lần lượt là 8,2 giờ, 1,3 giờ và 9,5 giờ. Nếu so sánh, kể cả thời gian làm việc và thời gian dùng để đi lại, người chồng đều nhiều hơn vợ. Không chỉ có thế, tần suất làm thêm của người chồng cũng nhiều hơn người vợ. Như vậy, hầu hết thời gian một ngày của người chồng đều dành cho công việc nên họ không có thời gian để làm việc nhà, chăm lo con cái. Điều đó có nghĩa là, dù trên diện ý thức, quan điểm đối với phân chia vai trò theo giới đang thay đổi nhưng thực tế lại khác xa so với suy nghĩ của họ. Chính vì vậy, đối với phụ nữ Nhật Bản, mô hình “New family” không còn được coi là mẫu hình lý tưởng của cuộc sống hôn nhân, mà đúng hơn thì đây là một mô hình gia đình  không tưởng. Vì thế, thế hệ trẻ hiện nay đang dần chuyển đến một sự lựa chọn hoàn toàn khác so với hai sự lựa chọn trước đây. Đó chính là cuộc sống không hôn nhân.

2. Hiện tượng “Makeru Inu”(con chó thua trận)

Khác với thời kì tăng trưởng kinh tế cao độ, hiện nay, nhiều phụ nữ lựa chọn cuộc sống độc thân, không chồng và không cả sinh con. Dường như họ đang tuyên chiến, đấu tranh với quan điểm “Là phụ nữ thì cần phải kết hôn”. Thế nhưng, chuyên tâm quá mức vào công việc và đến khi trên 30-40 tuổi, họ phải sống một cuộc sống cô đơn, không chồng con, nếm trải nỗi bi ai, luyến tiếc. Các nhà nghiên cứu cho rằng đó chính là hiện tượng “Con chó thua trận” (đó là sự luyến tiếc của con chó thua trận với tiếng hú vang xa). Tên gọi này xuất hiện đầu tiên trong tác phẩm “Tiếng hú vang xa của con chó thua trận” viết bởi Junko Sakai (2003), chỉ những phụ nữ “trên 30 tuổi, không có chồng và không có con”.  Ở thế hệ Dankai Sedai, người ta thường ví “Phụ nữ là một chiếc bánh giáng sinh”, nghĩa là cho đến ngày 24, nó rất đẹp, được mọi người xung quanh nâng niu ngắm nhìn và tất nhiên giá của nó cũng khá đắt. Nhưng một khi qua ngày 24, sau giáng sinh nó trở thành một thứ bỏ đi, phải bán hạ giá nếu không sẽ hết hạn sử dụng. Thế nhưng ngày nay, độ tuổi kết hôn thích hợp đã kéo dài thêm 5 tuổi, phụ nữ không còn được ví như một chiếc bánh giáng sinh nữa mà thay vào đó được là hình ảnh ngày tất niên của năm. Đồng nghĩa với, trước 30 tuổi vẫn còn có nhiều người quan tâm để ý nhưng nếu qua 30 tuổi, cơ hội gặp được đối tượng kết hôn thích hợp sẽ giảm đi.

Không chỉ có thế, khả năng sinh sản của phụ nữ trên 30 tuổi cũng thấp đi, dù có mang thai cũng có nhiều nguy cơ kèm theo. Theo Bộ Y tế Lao động và Phúc lợi Nhật Bản, trong cơ thể phụ nữ  có đồng hồ sinh học thể hiện độ tuổi sinh sản thích hợp. Tỷ lệ tử vong khi sinh đối với phụ nữ ở giữa độ tuổi 30 là 0.6% nhưng nếu là từ 37 tuổi sẽ tăng lên 1% và hơn nữa trên 42 tuổi sẽ lên đến 2,71%. Tỷ lệ lưu thai cũng tăng dần cùng với tuổi của người mẹ, 30% nếu trên 40 tuổi và tăng lên 50% nếu trên 43 tuổi. Thêm vào đó, trong trường hợp tuổi cao mà vẫn mang thai sẽ không chỉ có nhiều nguy cơ khó sinh hoặc thai chết lưu mà trẻ sinh ra cũng có thể mang một số căn bệnh như bệnh Đao... Vì vậy, nếu phụ nữ ở độ tuổi 30 không kết hôn thì họ nhiều khả năng sẽ phải trải qua cuộc sống độc thân không chồng không con đến hết đời. Lúc còn trẻ, họ có thể thỏa thích đi xem phim, mua sắm cùng bạn bè quên đi thời gian, họ không cảm nhận được sự cô độc của cuộc sống độc thân, nhưng khi trên 30 – 40 tuổi sẽ phải tự hỏi bản thân mình xem cuộc sống của một người độc thân có thật sự tốt đối với tương lai của họ hay không.

Như vậy, từ giữa những năm 70 cho đến nay, phụ nữ Nhật Bản có ba sự lựa chọn cho vấn đề kết hôn. Từ vai trò nội trợ trong mô hình “gia đình Sau Chiến tranh” cho đến kiểu gia đình mà vợ chồng cùng làm việc của “New Family”, hiện nay lại đang tiến tới không kết hôn. Nhưng từ những phân tích trên cho thấy, hiện nay, đối với phụ nữ Nhật Bản, cả ba lựa chọn trên đều không phải là sự lựa chọn tốt. Tuy nhiên, việc những phụ nữ lựa chọn cuộc sống độc thân cho thấy những thay đổi trong quan niệm về hôn nhân trong xã hội Nhật Bản. Tuy nhiên, xét theo quan điểm gia đình thì chúng ta có thể thấy quan điểm về gia đình của người Nhật không mấy thay đổi. Chính điều này cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến hiện tượng kết hôn muộn và không kết hôn ở Nhật Bản hiện nay.

Bùi Bích Vân, Viện nghiên cứu Đông Bắc Á

Tài liệu tham khảo

1.斉藤茂男(1982). 妻たちの思秋期, 斉藤茂男

2.  内閣府「男女のライフスタイルに関する意識調査」

http://www.gender.go.jp/research/kenkyu/lifestyle/index.html

3. 「仕事と結婚」、理想と現実のギャップにとらわれた女性たち

http://www.nippon.com/ja/in-depth/a04601/

Tin tức khác

NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN
NGƯỜI VÔ GIA CƯ Ở NHẬT BẢN

Ở Nhật Bản, việc sử dụng chính thức thuật ngữ “người vô gia cư” và định nghĩa rõ ràng của nó xuất hiện cùng với “Đạo luật về các biện pháp đặc biệt ...

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG INTERNET Ở NHẬT BẢN

Các dịch vụ internet thương mại đã có mặt tại Nhật Bản vào đầu những năm 1990 và được ngày càng nhiều người sử dụng trong những năm tiếp theo. Việc ...

KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN
KODOMO SHOKUDO (CĂNG TIN DÀNH CHO TRẺ EM) Ở NHẬT BẢN

Các quán ăn cung cấp bữa ăn miễn phí hoặc giá rẻ cho trẻ em đã tìm cách giải quyết tình trạng nghèo đói ở trẻ em khi chúng mới bắt đầu xuất hiện cá ...

CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19
CÁC VẤN ĐỀ AN SINH XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN NẢY SINH DO ĐẠI DỊCH COVID-19

Trong đại dịch COVID-19, hệ thống an sinh xã hội của Nhật Bản phải đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp đặc biệt là trong bối cảnh dân số già hóa và t ...

  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn