GIỚI THIỆU LIÊN HỆ

  • Trang Chủ
  • Chính Trị
  • Kinh Tế
  • Xã Hội
  • Lịch Sử
  • Văn Hóa
  • An Ninh
  • Khoa Học
  • Quan Hệ Quốc Tế

Xã hội


DƯ LUẬN NHẬT BẢN TRƯỚC TÌNH HÌNH LÂY LAN COVID-19

Trong tháng 3, NHK điều tra 2222 đối tượng nam nữ từ 18 tuổi trên toàn quốc, 1240 người, tương đương 56% đã trả lời. Kết quả, tỷ lệ ủng hộ Nội các Abe là 43% giảm 2 điểm % so với tháng 2. Tỷ lệ không ủng hộ là 41%, tăng 4 điểm % so với tháng 2. Tỷ lệ ủng hộ vẫn cao hơn không ủng hộ nhưng theo chiều hướng giảm và khoảng cách so với tháng trước bị thu hẹp từ 8 điểm % xuống còn 2 điểm %. Đánh giá về dịch Covid-19, 24% cảm thấy rất lo ngại, 50% lo ngại, 20% không lo ngại lắm và 4% hoàn toàn không lo ngại. So với tháng 2, tỷ lệ rất lo lắng tăng 5 điểm %, như vậy hơn 70% tỏ ra lo lắng với dịch bệnh. Xu hướng người dân cảm thấy bất an gia tăng cùng với sự lan rộng của Covid-19.



MỘT SỐ HƯỚNG ỨNG PHÓ VỚI GIÀ HÓA DÂN SỐ Ở NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN 1945 – 1990

Như đã biết, dân số và gia đình ở Nhật Bản biến đổi sâu sắc trong giai đoạn từ thời Minh Trị đến đầu thập niên 1990. Hiện nay, Nhật Bản đã trở thành một xã hội siêu già hóa chưa từng có tiền lệ trong lịch sử nhân loại. Sự tiến triển nhanh chóng của xã hội già hóa ở Nhật Bản hóa do nhiều nguyên nhân, trước hết là tỉ lệ tử vong của người già, thứ hai là động thái sinh đẻ, hay nói cách khác, là sự thay đổi về tỉ lệ sinh ở đất nước này, trong khi, tỉ lệ sinh lại biến đổi dựa trên vấn đề hôn nhân và gia đình, còn hai yếu tố này có quan hệ chặt chẽ với sự thay đổi quan niệm về hôn nhân, gia đình của người Nhật Bản. Như vậy, động thái dân số và gia đình Nhật Bản có quan hệ mật thiết với nhau, khi đề cập đến vấn này, không thể không nghĩ đến vấn đề kia.



ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI DÂN SỐ TỚI CƠ CẤU GIA ĐÌNH Ở NHẬT BẢN GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1990

Sự biến động dân số suốt từ thời Minh Trị đến những năm 1990 đã ảnh hưởng lớn đến cấu trúc và chức năng của gia đình Nhật Bản. Sự thay đổi dân số từ mô hình “sinh nhiều tử nhiều” qua giai đoạn “sinh nhiều tử ít”, và sang đến giai đoạn “sinh ít tử ít” đã thể hiện một quá trình thay đổi sự cấu thành của các gia đình Nhật Bản. Song song với đó, sự biến đổi dân số còn đưa đến những thay đổi quy mô hộ gia đình, làm thay đổi cấu trúc gia đình và cuối cùng là làm biến đổi vòng đời của các gia đình Nhật Bản.



VÀI NÉT VỀ DÂN SỐ NHẬT BẢN THỜI KỲ TRƯỚC THẬP NIÊN 1990 (Phần 2)

Với sự đô thị hóa dân cư, dân số đô thị chủ yếu tập trung ở 3 thành phố lớn nhất của Nhật Bản là Tokyo, Osaka và Nagoya. Năm 1950, 1 thành phố, 2 phủ và 7 tỉnh thuộc khu vực Tokyo (bao gồm Saitama, Chiba, thủ đô Tokyo và tỉnh Kanagawa), khu vực Chukyo (bao gồm các tỉnh Gifu, Ai chi, Mie) và khu vực Hanshin (bao gồm Kyoto, Osaka và tỉnh Hyogo) có dân số chiếm tới 34% dân số Nhật Bản, năm 1985 con số này đã lên tới 47%. Những năm 1980-1990 dân số khu vực Chukyo và Hanshin không thay đổi, trong khi dân số Tokyo vẫn tiếp tục tăng, tính tới năm 1985, cứ 4 người Nhật lại có 1 người sống ở Tokyo.



VÀI NÉT VỀ DÂN SỐ NHẬT BẢN THỜI KỲ TRƯỚC THẬP NIÊN 1990 (Phần 1)

Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn, nhưng cũng có tốc độ già hóa dân số nhanh và tỉ lệ người già cao nhất trên thế giới. Nếu như dân số Nhật Bản đầu thời Minh Trị (1868-1912) là 35 triệu người, thì đến những năm đầu chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945) đã tăng gấp đôi, lên 70 triệu người. Sau chiến tranh, cùng với sự phát triển của công nghiệp hóa, hệ thống phúc lợi xã hội đảm bảo, đời sống dân sinh được cải thiện, mức tăng trưởng dân số của Nhật Bản đạt tốc độ trên 1%/năm, và cán mốc 100 triệu người vào năm 1967. Bước vào những năm 1970, tốc độ gia tăng dân số chững dần, ở mức 0,5%/năm, trong khi dân số người già tăng lên, Nhật Bản bắt đầu bước vào xã hội già hóa.



NHẬT BẢN ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGHIÊM NGẶT ĐỂ HẠN CHẾ THỰC TẬP SINH BỎ TRỐN

Ngày 12/11/2019, Cục Quản lý cư trú và xuất nhập cảnh (ISA) Nhật Bản tuyên bố sẽ tăng cường các biện pháp nhằm hạn chế sự bỏ trốn của các công dân nước ngoài làm việc theo Chương trình đào tạo thực tập sinh kỹ thuật do Chính phủ tài trợ. ISA sẽ cấm các công ty và tổ chức tham gia vào chương trình này tiếp nhận thực tập sinh mới nếu bị phát hiện vi phạm các điều kiện của chương trình và có số lượng lớn thực tập sinh bỏ trốn. ISA cũng sẽ chia sẻ thông tin với các tổ chức và nhà môi giới ở nước ngoài để ngăn chặn các nhà môi giới lừa đảo áp đặt các điều kiện mà vi phạm quyền của thực tập sinh. Để bảo vệ các thực tập sinh tham gia chương trình này và ngăn ngừa họ bỏ trốn, ISA đang xem xét việc công bố công khai danh tính của các công ty tuyển dụng có thực tập sinh bỏ trốn. Nhật Bản cũng sẽ xem xét việc tiết lộ danh tính các công ty tuyển dụng bất hợp pháp thực tập sinh nước ngoài bỏ trốn.



ĐỊA VỊ XÃ HỘI CỦA PHỤ NỮ NHẬT BẢN TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY

Xã hội Nhật Bản thời hậu chiến đã trải qua những biến đổi to lớn về kinh tế và xã hội,  cùng với đó mối quan hệ giữa giữa nam giới và nữ giới cũng thay đổi đáng kể. Nhật Bản thời kỳ trước và trong Chiến tranh Thế giới thứ hai là một xã hội gia trưởng, trong đó nữ giới phải chịu sự phân biệt đối xử so với nam giới, tuy nhiên thời kỳ hậu chiến, đặc biệt kể từ sau khi Hiến pháp Nhật Bản được thực thi năm 1947, tuyên bố rằng bình đẳng giới và quyền con người phải được duy trì và bảo đảm, sự thay đổi về địa vị nữ giới ngày càng trở nên rõ ràng hơn.



BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TRONG GIA ĐÌNH NHẬT BẢN

Nhật Bản là một trong những cường quốc kinh tế trên thế giới, là quốc gia trong “top” đầu thế giới về thu nhập bình quân đầu người, các chỉ số phát triển con người (HDI)… nhưng một nghịch lý là chỉ số phát triển liên quan đến giới GDI (Gender related development index) và chỉ số vai trò của giới GEM (the Gender Empowerment Measure - thường được dùng để đo sự đóng góp của nam giới và nữ giới trong lĩnh vực hoạt động chính trị và kinh tế) ở Nhật Bản lại thấp hơn nhiều so với các chỉ số trên. Tại Nhật Bản phụ nữ luôn bị coi là tầng lớp thứ 2, điều này phản ánh tình trạng bất bình đẳng giới trong xã hội Nhật Bản, mặc dù ở Nhật quyền bình đẳng nam nữ đã được quy định trong bản Hiến pháp được ban hành ngày 3 tháng 11 năm 1946. Đặc biệt gia đình Nhật Bản là nơi sự phân biệt, kỳ thị giới diễn ra khá rõ nét. Việc tuyệt đối hóa quyền uy của người chồng và sự phục tùng một cách vô điều kiện của người vợ là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh và gia tăng tình trạng bạo lực gia đình, coi thường, hạ thấp vị trí vai trò của người vợ, người mẹ trong gia đình.



MẠNG LƯỚI HỢP TÁC TRONG BẢO TỒN LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG GION VÀ ONBASHIRA Ở NHẬT BẢN (Phần 1)

Văn hóa là các giá trị vật chất và tinh thần được sáng tạo bởi một xã hội hoặc một nhóm xã hội, nó đặc trưng cho xã hội và nhóm xã hội ấy. Chính vì vậy, văn hóa không thể được phát triển và trao truyền bởi những cá nhân đơn lẻ, mà bởi các mạng lưới xã hội. Trong mạng lưới ấy, có sự phân công công việc giữa các thành viên, cùng nhau đóng góp sức người, sức của, chia nhau trách nhiệm để cùng duy trì “cỗ máy tài sản văn hóa”. Ở Nhật Bản, có những lễ hội có lịch sử hơn 1000 năm, vẫn được bảo tồn, gìn giữ và tổ chức cho đến ngày nay với vẹn nguyên các giá trị truyền thống.



HIKIKOMORI – VẤN ĐỀ XÃ HỘI CỦA NHẬT BẢN

Một cuộc thăm dò của chính phủ công bố ngày 29/3/2019 cho thấy có khoảng 613.000 người Nhật Bản từ 40-64 tuổi đã bị xếp vào loại sống ẩn dật, tự giấu mình trong nhà và không muốn làm việc. Số lượng hikikomori trong nhóm tuổi từ 40-64 cao hơn trong nhóm tuổi từ 15-39 (với 541.000 người). Tổng số người đang sống ẩn dật ở Nhật Bản được cho là hơn 1 triệu người. Vào thời gian đầu xuất hiện, đa phần những hikikomori còn khá trẻ với độ tuổi trung bình chỉ khoảng 21. Tuy nhiên theo những khảo sát gần đây, độ tuổi trung bình của những hikikomori tại Nhật Bản ngày càng cao.



1 ... 4 5 6 7 8 9 10 11 12 ... 31
  • Đọc nhiều

    • Phân loại trợ từ trong tiếng Nhật
      Trong tiếng Nhật, trợ từ giữ một vị trí vô cùng quan trọng. Có tới hơn 80 loại trợ từ với hàng trăm ý nghĩa khác nhau. Dựa vào tiêu chí hình thức ( ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 1)
      Trong ngữ pháp tiếng Nhật, trợ từ đã tạo thành một tiểu hệ thống với những đặc trưng riêng biệt. Không giống với giới từ của tiếng Anh, tiếp vĩ ngữ ...
    • Trợ từ は (ha) và が (ga) trong câu tiếng Nhật (phần 2)
      II. Trợ từ 「が」(ga)
  • 1Trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
    2Giới thiệu đất nước, con người Nhật Bản
    3Cán bộ trung tâm nghiên cứu Nhật Bản
  • Đang online:


    Lượt truy cập

      Bộ đếm và thống kê Web chuyên nghiệp


 
7 Floor, No.176 Thai Ha St, Dong Da, Ha Noi, Viet Nam.
Tel.: 84-24-36824298 Fax.: 84-24-36824298
E-mail: cjs@inas.gov.vn